CÁCH HÓA GIẢI HẬN THÙ
Có rất nhiều cách hóa giải hận thù. Hận thù làm cho con người tức giận và muốn trả thù. Hận thù làm cho con người mất đi lòng thương yêu, làm con người hao tốn năng lượng kể cả về tinh thần lẫn thể xác. Chính vì nuôi lòng thù hận, sự lo lắng, buồn phiền, sự bất toại nguyện, sự không bằng lòng mà con người dễ bệnh và đánh mất chính mình từ suy nghĩ, lời nói cho đến hành động dẫn đến làm khổ chính mình, làm khổ người và làm khổ muôn loài vạn vật khác.
Cách 1: Quán Nhân Quả:
Quán nhân quả là nhìn mọi việc với đôi mắt nhân quả. Tất cả mọi việc xảy ra đều có nhân của nó. Do chính mình đã gieo nhân hại người, lừa gạt người, dối người mà ngày nay mình lại bị quả có người hại, lừa gạt hay dối mình. Do biết quán xét như vậy, mình biết lỗi của mình cho nên tự hứa không hại người, lừa gạt người hay dối người nữa và biết chấp nhận nhân quả xảy ra hằng ngày, không thù hận ai, chỉ biết tha thứ cho người hại, lừa gạt hay dối mình. Bởi vì chỉ có tha thứ mới chuyển đối được nhân quả, chỉ có tha thứ mới chuyển thù thành bạn, chỉ có tha thứ mới làm cho tâm hồn chúng ta thanh thản, an vui và vô sự, chỉ có tha thứ mới đem lại hạnh phúc thật sự cho cuộc đời này.
Có lúc chúng ta suy nghĩ rằng mình có bao giờ hại, lừa gạt hay dối người đó đâu mà sao mình lại bị người đó hại, lừa gạt hay dối gạt? Thưa không, nhân quả rất công bằng, không phải là mình chưa hại, lừa gạt hay dối người đó. Trong cuộc đời chỉ cần mình đã từng gieo nhân sống không thành thật, dối gạt, hay hại bất kỳ ai thì mình sẽ bị quả có người khác lừa gạt, dối gạt hay hại mình. Chính mỗi lần chúng ta gieo nhân xấu là chính chúng ta đã phát ra môi trường một từ trường ác, chính từ trường ác đó sẽ tương ưng với những người có từ trường ác có tính hãm hại, lừa gạt hay dối người.
Chính từ trường ác của mỗi chúng ta sẽ giao cảm tương ưng với hàng chục hàng trăm người khác để bị quả báo. Do vậy chỉ cần chúng ta gieo một nhân ác thì không phải chúng ta chỉ bị một quả xấu, mà là rất nhiều quả ác. Giống như đối với cây thực vật, khi con người gieo một hạt giống xuống đất, khi hạt giống đó nảy mầm, lớn thành cây, đơm hoa kết trái, cây đó có rất nhiều trái. Một nhân sanh nhiều quả là quy luật của tự nhiên.
Có khi chúng ta nghĩ rằng, đúng là trong cuộc sống có lúc chúng ta chỉ hãm hại, lừa gạt hay dối người một chút nhỏ, không đáng để lo, không ảnh hưởng gì nhưng tại sao chính chúng ta lại bị hãm hại, lừa gạt hay bị lừa dối thảm hại đến như vậy? Cũng giống như hạt và quả của cây thực vật, có hạt và quả nào là đồng lượng đâu, ai cũng muốn khi gieo một hạt nhỏ xuống đất thì có quả to. Quả có khi nặng gắp rất nhiều lần hạt. Nhân quả con người cũng vậy, chỉ cần gieo một nhân nhỏ, chúng ta phải bị chịu trả quả rất nặng nề và thảm khóc.
Do hiểu rõ những đặc tính của nhân quả như vậy, chúng ta hãy chấp nhận nhân quả hiện tại. Hãy luôn thương yêu và tha thứ cho tất cả mọi người làm hại đến ta, không nên giữ lòng thù hận mà lại làm khổ chính mình và người nữa. Chính tha thứ sẽ chuyển quả mọi nhân quả xấu ác thành nhân quả thiện, chính tha thứ sẽ chuyển đổi cuộc đời của con người từ đau khổ thành hạnh phúc.
Cách 2: Quán tâm Từ:
Người quán tâm từ là người luôn sống với lòng thương yêu chân thật giống như một người mẹ thương yêu con cái, dù là con cái phạm tội lỗi gì người mẹ vẫn thương yêu và tha thứ bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của con cái.
Do hiểu rõ cuộc sống của con người phải bôn ba kiếm sống từng chén cơm manh áo, chật vật suốt cả ngày. Người sống với lòng thương yêu chân thật là người không màng danh lợi, buông xả tất cả, đã từ bỏ mọi bản ngã. Do vậy dù ai gây hại gì cho mình, kể cả đánh đập hay giết mình người đó đều thương yêu và tha thứ. Họ không tiếc bỏ một vật gì, không bao giờ coi vật gì là của mình, ai là của mình, không chiếm hữu ai, tôn trọng mọi việc làm của người khác.
Dù cho ai hãm hại, lừa gạt hay lừa dối, người có tâm từ đều thương yêu vì họ nghĩ rằng những người kia đều vì sự sống để lừa gạt, để dối trá, để hạm hại.
Tóm lại người sống với tâm từ có lòng thương yêu rộng lớn, bao phủ tất cả như lòng thương yêu của một người mẹ, không phân biệt thân sơ, không phân biệt loài vật hay người, họ không bao giờ muốn hại ai, phạt ai, kiện ai. Tâm họ chỉ có lòng thương yêu đa hướng rộng lớn. Chính vì vậy mà họ có thể tha thứ cho tất cả mọi ai làm hại đến họ dễ dàng.
Cách 3: Quán tâm Bi:
Quán tâm bi là quán sự đau khổ của người khác để từ đó phát sinh ra lòng thương yêu của chúng ta. Giống như khi chúng ta thấy những người nghèo khổ, chúng ta liền muốn giúp đỡ, bố thí tiền bạc, v.v…Quán tâm bi chính là vậy.
Người hãm hại, lừa gạt hay dối mình là người đã tạo nghiệp xấu, chính vì họ tạo nghiệp ác thì họ sẽ phải chịu hàng chục, hàng trăm quả báo xấu và nặng gắp chục trăm lần những gì họ đã gây cho người khác. Khi tư duy đến đây chúng ta sẽ thấy rõ những sự đau khổ của họ trong tương lai mà thương yêu họ.
Đồng thời chúng ta cũng phải biết thương yêu chúng ta nữa. Bởi vì khi chúng ta bị hại, bị lừa gạt hay bị lừa dối, chúng ta nghĩ đến trả thù là chúng ta đã tự gieo thêm nhân xấu cho chính mình, chính vì lại gieo thêm nhân xấu thì phải bị gặt những quả xấu trong tương lại, khiến cho cuộc đời của chúng ta hết đau khổ này chồng lên những đau khổ khác.
Khi chúng ta trả thù thì người khác lại tìm cách hãm hại mình nữa, oan oan tương báo lúc nào mới chấm dứt, nhân quả ác chồng chất lên, chưa trả hết cái này lại bị cái khác chồng lên biết chừng nào mới trả xong hết những nghiệp ác cũ.
Hiểu rõ như vậy thì chúng ta hãy chấm dứt gieo những nhân hận thù, đó là cách giúp chúng ta tạo cuộc sống an vui, là cách giúp cho người khác không tạo thêm nhân quả ác nữa. Đó là cách quán tâm bi, đó là cách biết sống thương yêu chính mình và thương yêu người.
Cách 4: Quán tâm Hỷ:
Sau khi quán được tâm từ và tâm bi thì đến hỷ là vui vẻ không còn hận thù nữa thì mới gọi là quán hỷ. Nếu chưa thể vui vẻ được thì quán từ bi chưa xong.
Cách 5: Quán tâm Xả:
Khi tâm không còn nghĩ đến giận hờn hay thù hận ai nữa một cách thanh thản thì đã biết rằng đã buông xả tất cả. Người sống với tâm xả luôn chấp nhận tất cả mọi việc đến với tâm diệt ngã, buông xả, luôn nghĩ mọi người là người tốt, người thiện người lành. Không bao giờ nghi ngờ ai, nghĩ xấu về ai. Luôn tin tưởng mọi người. Dù ai hại mình họ đều nghĩ người đó đều đang giúp mình, đang thương yêu mình, đang tạo điều kiện tốt cho mình.
Cách 6: Chỉ nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người.
Người biết nhìn lỗi mình là người biết quán nhân quả, lỗi do mình đã tạo nhân xấu trong quá khứ cho nên ngày nay bị người khác hãm hại, lừa gạt hay dối trá với mình.
Chỉ cần luôn thấy lỗi mình thì sẽ luôn thương yêu và tha thứ cho người hại mình.
Cách 7: Quán vô thường:
Là cách quán mọi việc trên đời này đều bất biến, không cố định, luôn thay đổi. Gọi là quán vô thường.
Dù ai làm hại mình, dối gạt mình hay lừa gạt mình thì sau này người đó cũng thay đổi, trở nên người tốt, người thiện. Do vậy hãy thương yêu và tha thứ cho mọi người, đừng giữ trong lòng những điều xấu về họ nữa.
Ai nhìn đời bằng con mắt nhân quả hay duyên hợp thì sẽ hiểu rõ mọi pháp đều vô thường. Khi tâm thực sự thấm nhuần lý vô thường này thì tâm sẽ luôn bất động thanh thản an lạc và vô sự.
Tóm lại, có rất nhiều phương pháp để có thể sống trong thương yêu và tha thứ, mỗi người trong cuộc sống sẽ tự chọn cho mình một hoặc vài phương pháp thích hợp tùy hoàn cảnh, tâm trạng của mình. Miễn sao phương pháp đó giúp cho chính người đó không sống trong thù hận, sân giận hay ghen tức. Những cách trên là những cách hợp với tác giả bài viết. Mong rằng tất cả bạn đọc chia sẻ những phương pháp riêng của chính các bạn để tác gia được học hỏi thêm, nhằm giúp cho cuộc đời này thêm nhiều niềm vui và hạnh phúc, loại bỏ mọi thù hận, tức giận và ganh ghét.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
ĐỨC HIẾU SINH MỘT HƯỚNG VÀ ĐA HƯỚNG
Tình yêu thương một hướng hay đa hướng đều gọi là đức hiếu sinh. Trong đức hiếu sinh một hướng vẫn còn có sự khổ đau, hoặc khổ mình, hoặc khổ người, hoặc khổ các loài vật. Còn đức hiếu sinh đa hướng thì không có sự khổ đau nào.
I/ Trong ba điều kiện của đạo đức nhân bản - nhân quả: 1- không làm khổ mình, 2- khổ người và 3- khổ chúng sinh. Người sống với đức hiếu sinh một hướng là người chỉ biết thỏa mãn lòng yêu thương 1 hoặc 2 đối tượng ở trên, không để ý đến tính mạng và cảm nhận của những đối tượng còn lại, do vậy vẫn còn có sự đau khổ. Họ không nghĩ đến tác hại của lòng yêu thương đó có mang nguy hiểm đến cho chính mình, cho người hoặc cho các loài vật khác hay không. Họ không cần biết đến người khác hoặc các loài vật khác nghĩ gì, có thích hay không, không thích cái gì, có muốn hay không, không muốn cái gì, có lo lắng, sợ hãi điều gì, có quan tâm điều gì hay không. Họ chỉ biết thỏa mãn lòng yêu thương của họ, bắt người khác, hoặc các loài vật khác làm theo, tuân theo ý của họ. Do vậy, mà có khi chính họ, hoặc người khác hoặc các loài vật khác vẫn bị đau khổ.
II/ Người sống với Đức hiếu sinh đa hướng là người không chỉ biết yêu thương mình, thương người và các loài vật khác, mà còn biết nghĩ đến cảm nhận của người khác, biết nghĩ đến hậu quả của việc làm của mình có làm khổ mình, khổ ai hoặc các loài vật khác hay không. Do có tư duy suy xét thấu đáo, người có đức hiếu sinh đa hướng không bao giờ làm mình, người khác hoặc các loài vật nào buồn khổ cả. Chính họ đã biết đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người và các loài vật, lấy niềm vui đó làm niềm vui cho chính mình.
Ví dụ:
1- Mình bắt một con rùa về nuôi, thương yêu nó, nhưng con rùa vẫn buồn rầu, vì suốt ngày bị nhốt trong lồng, trong ao, không tự do như trước đây. Tương tự, đối với cá, chim, tắt kè, gà, vịt, chó, bò và tất cả các loài vật khác khi bị bắt về nhốt trong lồng, trong chậu, trong hồ, trong ao, trong chuồn, bị cột, bị xích,...đều bị mất tự do, chúng rất đau khổ. Nhiều người thích nuôi chim, thích nghe chim hót. Có ai nghĩ rằng chúng đang sầu não, cất tiếng hót bi thương ngục tù, tiếng hót nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ con cái, nhớ cha mẹ hay không !? Đó là đức hiếu sinh một hướng.
- Người sống với Đức hiếu sinh đa hướng không bao giờ bắt loài vật nào về nuôi, họ biết tôn trọng sự sống của các loài vật, tôn trọng sự tự do của chúng.
2- Trong gia đình, cha mẹ rất yêu thương con cái, anh chị yêu thương em, nhưng đôi khi lòng yêu thương đó chỉ có một chiều, không hề nghĩ đến cảm nhận của con cái hoặc em mình như:
- Muốn con cái mình học giỏi, bắt con cái học từ sáng đến tối, không cho chúng có thời gian đi chơi, thư giản, học suốt tuần, thứ bảy chú nhật cũng đăng ký cho con học thêm tiếng Anh, tiếng Hoa,...Lo sợ con cái học dỡ hơn người khác.
- Khi biết con mình có người yêu thì cấm đoán, chê bai người yêu của con mình xấu, không học thức, không danh vọng, không nghề nghiệp, không tải sản, ăn nói quê mùa, có gia đình nghèo không tiếng tăm, ở xa tít ở vùng nào đó không ai biết,...
- Khi biết con mình có người yêu thì đi xem tuổi có hợp nhau hay không, nếu không hợp thì khuyên chúng bỏ nhau. Nếu mình thích và thấy ai đó hợp với con mình thì làm mai mối cho con mình, khuyến khích chúng cưới nhau, kể cả khi biết con mình không yêu thích gì người mai mối kia, cũng cố ép.
- Muốn con mình học những ngành mà con mình không thích, như con mình thích học ngành kế toán, thì bắt con mình học ngành bác sĩ,...
- Nghe nói chơi trò chơi điện tử sẽ hại con trẻ, về nhà không cho con mình chơi game nữa.
- Sợ con cái còn nhỏ ra ngoài chơi sẽ bắt chước tính xấu của trẻ em khác, liền cấm không cho con ra ngoài, suốt ngày nhốt trong nhà như tù ngục.
- Con cái không nghe lời thì la mắng, đánh đập, phạt, cột, treo lên,...
- Chiều chuộng con cái, cho chúng nhiều tiền xài, ăn chơi, sanh tật đua đòi, sắm sửa cho con cái những thứ mắt tiền, khoe của cải cho con cái biết cha mẹ giàu có,...
Đó là tình yêu thương một hướng.
- Còn người sống với Đức hiếu sinh đa hướng không bao giờ áp đặt, bắt buộc, ép buộc con cái hoặc em mình làm theo những gì mình muốn, mình thích. Luôn tôn trọng ý kiến, việc làm của con cái và em mình. Cụ thể như.
- Không bắt con cái học suốt ngày, suốt tuần, khuyến khích con cái tự học, tự lên kế hoạch thời gian nào học, thời gian nào chơi, thời gian nào coi phim, thời gian nào phụ việc nhà,...
- Không bao giờ đánh đập, phạt con. Nếu con cái không nghe lời thì chỉ phạt bằng cách bắt con làm bài tập, ngồi đó đọc sách đạo đức, tự suy ngẫm về những hành động đạo đức, suy ngẫm về những hành động của mình có làm cho mình khổ, người khác hoặc các loài vật khác khổ không?
- Nếu con cái yêu thương người nào thì cũng đồng ý, miễn sao con cái thấy hạnh phúc là được. Không bao giờ chê bai người yêu của con mình hoặc gia đình của nó.
- Không phá hoại hạnh phúc của con cái mình bằng những việc mê tín dị đoan như xem tuổi của 2 đứa. Không làm mai mối cho con cái mình với bất kỳ ai, nếu như chúng không thích.
- Không chìu chuộng con cái, không nên tập cho chúng xài tiền lớn, dạy cho chúng biết quý từng đồng, từng cắt, biết tiết kiệm, biết quý trọng sức lao động làm ra từng đồng tiền, dạy cho chúng biết cha mẹ rất khổ cực làm ra từng đồng tiền, dạy cho chúng biết chia sẻ những gì chúng có cho những bạn thiếu may mắn hơn chúng, dạy cho chúng đạo đức làm người...
3- Trong gia đình vì phải lo cuộc sống cho cả gia đình, cha mẹ hoặc anh chị phải làm đủ mọi nghề để kiếm sống, chỉ cần biết kiếm tiền, họ đã vô tình làm những nghề ác như: săn bắn, chài lưới, buôn bán thịt sống, thịt chết, buôn bán rượu, buôn bán người và những nghề khác phục vụ hoặc gián tiếp cho 6 nghề ở trên. Chính vì vậy họ tự tạo thêm nghiệp khổ cho họ. Họ nuôi sống con cái và em bằng cách cho ăn thịt động vật, thì lại tạo thêm nghiệp khổ cho con cái và em họ. Khi có ai trong nhà bị bệnh, thì họ cũng dùng thịt động vật bồi bổ cho người bệnh, chính vì vậy chính họ và người bệnh lại bị khổ chồng khổ do cứ huân tập nghiệp sát sanh. Tình yêu thương đó chỉ là tình yêu thương một hướng.
- Người sống với Đức hiếu sinh đa hướng không bao giờ làm những nghề ác, họ không bao giờ ăn thịt và giết hại các loài vật làm thức ăn cho mình. Do vậy họ không có bệnh hoặc rất ít bệnh, bệnh nặng cũng trở thành bệnh nhẹ, và bệnh nhẹ thì mau hết.
4- Có gia đình trọng nam khinh nữ, có gia đình cha mẹ thương người này nhiều hơn người kia, cho nên đến khi chia tài sản gia đình cho con cái thì cha mẹ chia cho đứa con được thương nhiều hơn hoặc chia cho con trai nhiều hơn con gái. Dẫn đến anh em bất hòa. Đó là những cảnh của lòng yêu thương một hướng.
- Người có lòng yêu thương đa hướng thì sẽ yêu thương các con bình đẳng như nhau, không trọng nam khinh nữ. Khi chia sẻ tài sản cũng bình đẳng như nhau, không ai nhiều hơn ai.
5- Trong xã hội có rất nhiều trường hợp như:
Trong Cty xí nghiệp, người chủ là những người tạo công ăn việc làm cho mọi người, nhưng bắt nhân viên của mình làm việc quá 8 tiếng, bắt làm những việc mà họ không thích, không phải chuyên môn của họ, không biết lắng nghe những đóng góp ý kiến của họ, ai làm trái ý, làm sai thì trừ lương, đuổi việc.
Đối với chính quyền thì người lãnh đạo là người phải có tấm lòng thương yêu dân, nhưng lại không biết nghe ý kiến của dân, độc quyền, độc đoán, không cần biết dân kêu oan vấn đề gì, không giải quyết khiếu nại của dân, không tôn trọng quyền dân chủ, không tôn trọng tự do tôn giáo, tự do báo chí, không có nhân quyền. Luôn áp đặt, bắt bớ, phạt, giam những ai chống đối lại đường lối lãnh đạo của họ. Từ đó dẫn đến khởi nghĩa, nổi dậy, biểu tình, nội chiến khắp nơi. Không nhận thức rõ vai trò lãnh đạo là phục vụ dân, lo cho dân, lắng nghe dân, giúp dân yên ổn, ấm no, giúp dân giải quyết mọi tranh chấp, khiếu nai,...ngược lại chỉ biết áp đặt, khi làm sai thì không biết nhận lỗi, không biết thấy xấu hổ từ chức. Đó là người lãnh đạo vì danh vì lợi chứ không phải vì dân.
Đó là tình yêu thương một hướng.
- Người sống với Đức hiếu sinh đa hướng khi làm lãnh đạo hoặc người quản lý dù là trong Cty xí nghiệp, hoặc các đoàn thể, tập thể, hội chúng, chùa, tu viện hoặc đối với chính quyền nhà nước, họ không chỉ là người biết yêu thương nhân viên, yêu thương hội viên, tín đồ, tu sinh, yêu thương dân, lo cho dân, phục vụ dân, mà còn phải không độc quyền độc đoán, không áp đặt. Họ biết lắng nghe ý kiến của nhân viên, hội viên, tín đồ, tu sinh, dân của mình; giải quyết những chuyện oan ức cho họ. Tôn trọng nhân quyền, tự do tôn giáo của mọi người dân, tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ. Người lãnh đạo một đất nước là người phải biết hiểu rõ dân của mình muốn gì, cần gì, lo lắng điều gì, sợ hãi điều gì. Chính sự tự do báo chí và ngôn luận là những đầu mối, nguồn thông tin quan trọng để hiểu rõ dân, biết dân đang lo lắng, sợ hãi, bất an điều gì hoặc có những thông tin về những tệ nạn tham ô, tham nhũng, hối lộ trong bộ máy quản lý ở đâu đó hoặc những thông tin về những tội ác, tội phạm trong đất nước, từ đó người lãnh đạo đưa ra cách giải quyết sớm nhất để giúp cho dân, giúp cho đất nước được bình an vô sự... Chứ đâu có nhà lãnh đạo nào có đủ thời gian đi thị sát từng nhà, từng khu phố, từng địa phương. Thời phong kiến chưa có báo chí, cho nên vua, quan đi thị sát dân là đúng, nhưng cũng đâu có đi thị sát hết được, đi bên đông thì bên tây làm loạn, đi bên tây thì bên đông tham nhũng,... không sao giải quyết hết được. Ngày nay nhờ có báo chí, internet và các cơ quan truyền thông khác như TV, radio,...mọi thông tin đến từ khắp thế giới rất nhanh, chính xác và đầy đủ. Người lãnh đạo chỉ cần ngồi một chổ lắng nghe từ nhiều nguồn khác nhau, so sánh, tổng kết lại, tìm cách giải quyết và xử lý kịp thời. Có làm được như vậy thì dân sẽ an, không còn biểu tình, nổi dậy, khởi nghĩa, nội chiến nữa. Kể cả khi dân muốn mình từ chức thì mình phải tự ý từ chức. Ở Nhật Bản, các vị thủ tướng khi cảm thấy bất tài, không lo được cho dân để nhà máy điện hạt nhân bị rò rĩ chất phóng xạ, đã làm đơn xin từ chức ngay. Đó là những người lãnh đạo vì dân vì nước, chứ không phải vì danh vì lợi.
6- Vào bất kỳ nơi nào dù là trong chùa, tu viện hay tập thể, tổ chức nào cũng vậy. Ở đâu cũng có những khiếm khuyết, ở đâu cũng có những người lãnh đạo, quản lý thiếu kinh nghiệm, ở đâu cũng có cái sai và thiếu xót. Ai ai cũng có lúc sai phạm hoặc thiếu xót điều gì đó, nhưng nếu ta thấy được điều sai, điều xấu, hoặc cái lỗi nào của ai, rồi ta góp ý hoặc nhắc cho họ biết thì chưa chắc là giúp họ, mình tưởng mình thương họ, mình nhắc cho họ, ai ngờ đâu họ bị tự ái, họ lại càng giận, càng ghét mình thêm, càng tránh xa mình hơn. Khi mình thấy vậy, thì mình hối hận vì đã bị hiểu lầm "làm ơn mắc oán", rồi bực tức sanh ra đi nói xấu người kia, nói với người khác mình có tâm tốt muốn giúp họ, ai ngờ lại bị ghét thêm. Đó là người có lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng, họ không bao giờ nói cái sai, cái lỗi, cái xấu của bất kỳ ai trước mặt lẫn sau lưng. Họ chỉ nói hoặc góp ý khi có người nhờ góp ý hoặc nhờ chỉ lỗi dùm. Vì khi đó, nói ra không làm ai buồn phiền, sân giận, và mình cũng cảm thấy là giúp được người chứ không phải hại họ.
7- Một người thấy 5 em bé rơi xuống sông sắp chết đuối, anh ta nhảy xuống cứu được 4 em. Đến em cuối cùng, sức lực của anh đã cạn kiệt, nhưng vì lòng yêu thương, anh ta cố nhảy xuống, không những không cứu được mà anh cũng bỏ mạng luôn. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng, đối với việc cứu người, phải tùy theo sức của mình, nếu mình thấy mình không có khả năng thì nên nghĩ cách khác hoặc nhờ người khác cứu.
8- Trong lịch sử có những giai đoạn người giàu bóc lột người nghèo, từ đó những anh hùng rơm xuất hiện, vì thương người nghèo, họ đã trở thành tướng cướp, cướp của người giàu chia cho người nghèo. Dù đó là hành động giúp người, nhưng vẫn mang tội ăn cướp, khi bị bắt vẫn phải bị treo cổ, tống giam hoặc giết chết. Còn người nhận tiền ăn cướp thì cũng phải bị phạt, bị đánh, bị đối xử tệ hơn. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng, muốn làm anh hùng rơm cứu giúp người nghèo thì nên làm những việc thiện như tự mình buôn bán kiếm tiền, có tiền rồi thì giúp ai cũng được, vì lúc đó mình giúp người bằng đồng tiền trong sạch. Có như vậy thì không bao giờ làm khổ mình, khổ người.
9- Đất nước Mỹ là một đất nước rất mạnh về quân sự và quyền lực trên quốc tế. Do vậy chính quyền Mỹ rất thích can thiệp vào mọi đất nước khác trên thế giới với ý là diệt trừ những nhà lãnh đạo độc tài, độc quyền độc đoán, tham ô, tham nhũng, tiêu diệt những tổ chức khủng bố,.... Tạo ra chiến tranh ở các nước khác như ở Iraq, Afghanistan,..., làm bao gia đình cửa mất nhà ta, người thân ly tán nhau. Từ đó làm cho nhiều người, các tổ chức và các nước khác không thích, dẫn đến khủng bố đối với dân Mỹ và trên đất nước Mỹ, làm người dân Mỹ lo lắng bất an. Chiến tranh thì hao tốn quá nhiều tiền đóng thuế của người dân Mỹ. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Nếu các nhà lãnh đạo Mỹ có đức hiếu sinh đa hướng, nên chấm dứt can thiệp vào chuyện chính trị, kinh tế, quốc phòng, nội bộ của các nước khác. Nếu nước Mỹ thương yêu nước khác thì chỉ nên trợ giúp nhân đạo là đủ, không nên can thiệp quân sự vào bất cứ nước nào. Không nên bán vũ khí cho bất kỳ nước nào, chỉ nên sản xuất vũ khí để tự vệ thôi. Không can thiệp vào nước khác thì làm gì có kẻ thù, có khủng bố. Nếu có khủng bố thì hợp tác với các nước khác diệt trừ các tổ chức khủng bố đó qua các đội đặc nhiệm Interpol là đủ. Không tạo ra chiến tranh thì nước Mỹ đâu có nợ nhiều như ngày hôm nay. Tiền đó là tiền mồ hôi nước mắt của dân Mỹ đóng thuế.
10- Trong tôn giáo:
Chùa, nhà thờ, tu viện là nơi giúp mọi người về đó tu sửa thân tâm cho toàn thiện hơn. Tu sửa bằng sự hiểu biết rõ đạo đức nhân bản - nhân quả, giúp cho con người xa lìa những ác pháp, chỉ sống thiện. Sự thay đổi đó chính là nhờ tự lực mỗi người nhận thức được sự nguy hai và nguy hiểm của những hành động ác, cho nên họ quyết định xa lìa, đoạn và diệt nó. Sau đó làm cho sinh và tăng trưởng thiện pháp trong thân tâm mình. Nhưng nếu như những tôn giáo lại truyền bá những tư tưởng có thế giới siêu hình, có ngọc hoàng, thượng đế, đấng tạo hóa, có thần thánh ban thưởng, thì con người sẽ ỷ y, nương tựa vào thần thánh, mất đi tính tự lực sửa mình, chỉ sống trong tha lực, cầu khẩn. Khi có chuyện gì lạ xảy ra, không giải thích được, thì họ cho đó là bàn tay của thần thánh, của đấng tạo hóa, do thần thánh hay đấng tạo hóa xếp đặt, giống như số mạng đã an bài, đã định sẵn, phải chấp nhận. Từ đó dẫn đến khi có bất cứ chuyện gì xảy ra, con người liền nghĩ đến thần thánh và đấng tạo hóa, rồi cầu nguyện, xin xỏ. Họ luôn sống trong sợ hãi, lo lắng và đau khổ, mất đi sự tự tin. Ví dụ:
a- Khi con người bị bệnh, tai nạn thì họ cho đó là tự nhiên, hoặc xui xẻo hoặc nói do thần thánh xếp đặt, an bài để thử thách họ hoặc đổ lỗi cho ma quỷ. Còn khi hết bệnh, tai qua nạn khỏi thì nói rằng do thần thánh cho hết bệnh, giúp cho tai qua nạn khỏi.
b- Khi con người tôn thờ thần thánh thì sẽ bị mê muội mất đi tính tự lực, họ không còn chịu trách nhiệm cho những gì họ làm, nếu có làm sai thì đi xưng tội sẽ được thần thánh tha thứ cho hết tội. Cứ như vậy mà họ càng không sợ tội, vẫn sống ác, vẫn bị bệnh, tai nạn và vẫn khổ.
Đó là lòng yêu thương một hướng.
Ngược lại nếu tôn giáo nào có tình yêu thương đa hướng, họ hiểu rõ tất cả tôn giáo đều lấy đạo đức làm nền tảng căn bản xây dựng tôn giáo của mình. Khi con người sống có đạo đức thì việc có thần thánh hay không có đối với họ không còn là quan trọng nữa. Chúng ta không nên tuyên truyền những tư tưởng thần thánh vào lòng người dân. Tôn giáo nào cũng tự sáng chế ra thần thánh của mình là cao siêu nhất, vĩ đại nhất, toàn năng nhất. Để làm gì? để lôi kéo tín đồ hay là để mê hoặc con người. Con người đến với tôn giáo là vì những sự cao siêu, toàn năng, phép lạ của thần thánh hay là đến với tôn giáo vì nền đạo đức, sống không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sinh. Câu trả lời là: con người tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi biết sống đạo đức. Họ tự biết chịu trách nhiệm cho những gì mình làm sai, và họ vui vẻ khi gặt được những phước báu do những gì họ đã sống thiện. Họ không cần nương tựa vào thần thánh nào, vì họ đã hiểu mọi việc xảy ra trên đời này đều có nhân quả, không có gì là tự nhiên có, nhân quả rất công bằng, thưởng phạt phân minh, không ai có thể mua chuộc được ai. Do vậy ở đâu có đạo đức nhân bản- nhân quả, ở đó sẽ có niềm vui và hạnh phúc. Chỉ như vậy là đủ. Đối với người sống có đạo đức nhân bản - nhân quả, có thần thánh, thượng đế, đấng tạo hóa hay không, không quan trọng. Họ chỉ biết sống trong hiện tại, sống đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người và chính mình, như vậy là đủ. Họ không quan tâm, tại sao con người có mặt trên đời này, sống để làm gì, chết đi về đâu, kế hoạch của đấng tạo hóa là gì, tương lai có vị thần thánh nào xuất hiện hay không?....
11- Người vào chùa, tu viện tu hành là người đã từ bỏ mọi thứ ở đời. Với mục đích làm chủ sinh lão bệnh tử, giải phóng mình khỏi nhân quả, họ quyết tâm tu hành ráo riết. Nhưng nếu như chưa thông suốt hết đường lối tu tập, bị dính mắc vào các pháp tu, dính mắc vào các trạng thái khinh an, hỷ lạc, không chịu buông bỏ, bị hôn trầm thùy miên không chịu đi kinh hành, tưởng là mình đang nhập định thì coi chừng đường tu của mình bị đứt đoạn tại đây. Tu chưa xong, mà đã bị tẩu quả nhập ma, người không ra người, ma không ra ma, dở dở ương ương là đang làm khổ mình, khổ người, khổ gia đình mình thêm. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng vào chùa, tu viện tu hành nên thông suốt tất cả đường đi nước bước tu tập, thông hiểu ý nghĩa của việc tu hành là sửa những hành động ác thành thiện, là ngăn ác diệt ác pháp, chứ không phải là ngồi thiện, niệm Phật, niệm thần chú, hoặc thích các trạng thái khinh an hỷ lạc, rồi bám vào để có định, có tuệ. Tu phải bằng ý thức, không nên để ý thức mất. Ý thức mất thì tưởng thức sẽ dẫn vào thế giới tưởng, bị tẩu quả nhập ma. Do đó phải cẩn thận, dè dặt từng chút một, phải làm chủ cho được hôn trầm thùy miên, vô ký, ngoan không và hôn tịch, không để tâm lờ mờ, lim dim, cà dờ cà dật, gật lên gật xuống, nghiêng trái nghiêng phải, ...
12- Người tu hành là người biết thương mình thương người, đi tu là để sửa đổi thân tâm thành người tốt, để sau này tu xong giúp những người thân, giúp đời. Nhưng khi vào chùa vào tu viện thì bị tâm ái kiết sử dày vò, lôi kéo, lo lắng bất an. Đó là vì trước khi đi tu chưa giải quyết xong chuyện gia đình, chưa có sự đồng ý của cha mẹ, vợ (chồng), con cái. Vẫn thấy mình còn làm khổ họ. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng trước khi vào chùa nên giải quyết chuyện gia đình cho đâu vào đó, xả bỏ mọi dính mắc ở đời, được sự đồng thuận của cha mẹ, vợ (chồng) con cái, anh em và những người thân trong gia đình. Có như vậy thì tâm mới yên ổn, không còn trạo cử, trạo hối, không còn bị ái kiết sử dày vò, lôi kéo.
13- Tu viện, chùa là nơi luôn rộng cửa đón chào mọi người đến tu tập sửa chữa thân tâm. Dù cho tu sinh hoặc tín đồ có làm sai điều gì hoặc tu sai thì cũng không nên vì lý do đó đuổi họ về hoặc gọi người nhà của họ lên đón về. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng khi làm quản lý hoặc các thầy cô có trách nhiệm tìm cách giúp đỡ, tháo gỡ những vướng mắc, giúp họ thông suốt đường lối tu tập, hoặc chuyển họ sang khu tu tập nhẹ hơn vừa với sức của họ, không nên đuổi họ về nhà và cũng không gọi người thân của họ tới đón về. Bởi vì có những người đã từ bỏ bán hết hoặc chia hết của cải tài sản cho người thân, thì họ đi đâu bây giờ. Vác cái mặt bị đuổi về nhà hay sao? Hay là phải lang thang khắp đường phố, hay là phải nương nhờ vào những chùa, tu viện của ngoại đạo? Do vậy, trước khi quyết định cho họ về nhà thì phải tìm hiểu kỹ, gia đình họ có chấp nhận cho họ về hay không? Cuộc sống của họ sau này sẽ ra sao? Có làm khổ họ hay không? khổ gia đình của họ hay không?....
14- Phóng sanh là một hành động thương yêu các loài vật, nhưng nếu ai ai cũng đi mua các loài vật bị bắt đem đi phóng sanh thì sẽ có nhiều người làm nghề đi bắt các loài vật đem bán lấy tiền. Do vậy việc phóng sanh trên có còn là việc thiện không? Vì sự phóng sanh của mình mà tạo ra bao nhiêu người làm nghề ác. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng chỉ phóng sanh những con vật có duyên với mình, khi mình tình cờ gặp những con vật bị sập bẫy, những con cá bị trôi dạt lên bờ, những con giun, con sên bò ra giữa đường đi, thì mình cứu giúp chúng tháo bẫy ra, đem chúng xuống nước, đem vào bãi cỏ để người khác đi ngang không giẫm đạp lên chúng. Không nên tiếp tay mua những con vật do người khác bắt đem bán. Hoặc thấy người thân của mình mua chim, rùa, cá về nuôi, mình nên khuyên họ thả chúng đi, trả tự do cho chúng. Mình cũng thích tự do, tại sao mình lại giam hãm kẻ khác để làm vui cho mình, vui trên sự đau khổ của kẻ khác đâu phải là niềm vui thực sự. Trả tự do cho chúng mới là niềm vui thực sự.
15- Người chưa tu hành xong, chớ nên dạy đạo cho người. Đừng nghĩ rằng mình đã tu được một thời gian, dẫu sao cũng có một chút kinh nghiệm. Do có suy nghĩ như vậy, cho nên thích đàm luận, tranh luận, bàn luận với người khác về đạo, rồi sau đó thích nhận xét, đánh giá, phê phán, chê bai sự hiểu biết của người khác hoặc đạo của người khác, rồi sau đó tự cho là mình giỏi, giảng dạy đạo luôn cho người ta. Người như vậy không phải thương người mà chính đang tự hại người hại mình. Đó là lòng yêu thương một hướng.
- Người có đức hiếu sinh đa hướng, khi chưa tu xong chỉ nên im lặng như thánh, chỉ nên học hỏi, trau dồi kiến thức, trau dồi tri kiến giải thoát để xả tâm, chứ không đàm luận, tranh luận, bàn luận với ai về đạo. Không nhận xét ai đúng, ai sai, ai phải ai trái. Có biết gì thì nên im lặng. Sợ hãi từng lỗi nhỏ nhặt, nhất là sợ những lời khen ngợi, và tránh xa nơi đó hoặc những người đó. Có như vậy thì mới không làm khổ mình, khổ người.
16- V.v...
Kết Luận:
Đức hiếu sinh một hướng là lòng yêu thương ích kỷ, chỉ biết có mình mà quên đi cảm nhận của người khác và các loài vật khác muốn gì, hoặc chỉ biết yêu thương người khác và các loài vật khác mà không nghĩ đến tính mạng của mình, không quán xét rõ hậu quả của sự yêu thương đó có phải là một chiều hay đa chiều. Tình yêu thương đó vẫn còn đau khổ.
Đức hiếu sinh đa hướng là lòng yêu thương không có sự đau khổ của bất kỳ ai, bất kỳ loài vật nào. Ai ai cũng thấy vui vẻ và hạnh phúc. Người sống với lòng yêu thương đa hướng luôn luôn mang niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người và muôn loài vật, lấy niềm vui đó làm niềm vui cho chính mình. Vui trên cái vui của người khác.
- Ở đâu có đức hiếu sinh đa hướng, thì ở đó sẽ không có lòng ganh tỵ, ghen ghét, sân giận, thù hận, đố kỵ hoặc bất kỳ ác pháp nào.
- Ở đâu có đức hiếu sinh đa hướng, ở đó sẽ có sự yên bình, hòa thuận, đoàn kết và không bao giờ có chiến tranh.
Sống trong gia đình, xã hội, mỗi cá nhân các bạn sẽ còn có nhiều kinh nghiệm thấy rõ đức hiếu sinh một hướng và đa hướng trong môi trường và hoàn cảnh của mình. Sự dẫn chứng trên chỉ là sơ bộ và chắc chắn có điều gì đó sai sót, xin các bạn bổ sung, sửa đổi và đóng góp ý kiến để làm rõ hơn về đức hiếu sinh một hướng và đa hướng này.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
TRAU DỒI LÒNG TỪ
Lòng "Từ" là lòng yêu thương vô bờ bến, đa hướng, không ích kỷ và không phân biệt người thân quen, người xa lạ hoặc loài vật nào. Người có lòng Từ yêu thương sẽ không bao giờ sân giận người khác. Do vậy muốn khắc phục tâm sân giận của mình chỉ có cách trau dồi lòng Từ cho thấm nhuần thì chúng ta sẽ thấy hiệu quả cực kỳ hiệu nghiệm.
Lòng từ có thể chuyển hóa nhân quả từ xấu thành tốt, chuyển hóa người xấu thành người thiện, cảm hóa rất nhiều người và các loài vật, giúp cho mọi người yêu thương nhau hơn, biết tha thứ cho nhau và xích lại gần nhau hơn.
Mỗi sáng sau khi chúng ta thức dậy, hãy tự nhắc nhủ trong lòng rằng:
Hôm nay ta sẽ sống trọn một ngày yêu thương, chia sẻ những gì mình có với tất cả mọi người.
Hôm nay ta sẽ sống biết tha thứ cho tất cả mọi người và mọi vật gây tổn hại đến ta.
Hôm nay ta sẽ luôn biết cung kính và tôn trọng tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn ta.
Hôm nay ta chỉ nói những lời nói thương yêu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn và dịu dàng với tất cả mọi người từ em bé cho đến những người gây tổn hại ta.
Hôm nay ta sẽ luôn sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng theo lời nói, ý kiến và việc làm của tất cả mọi người, để mọi người vui, mình vui.
Hôm nay, dù có chuyện gì xảy ra, đều là nhân quả của ta. Ta chỉ nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người.
Khi quen dần với phương pháp này, chúng ta có thể trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra cả thế giới, khắp hành tinh ta đang sống: Ví dụ: Khi rãnh chúng ta ngồi nhắc thầm trong đầu rằng: "Ta sẽ luôn yêu thương và tha thứ cho tất cả mọi người và muôn loài vật; luôn cung kính và tôn trọng tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, dân tộc, màu da, sang hèn; luôn sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi ý kiến, lời nói, yêu cầu và việc làm của người để người vui mình vui".
Đầu tiên ta nguyện sẽ sống đúng như câu trên với tất cả mọi người trong gia đình. Sau đó, sẽ trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra đến tất cả hàng xóm, mọi người xung quanh khu ta ở, sau đó trải rộng ra khắp quận huyện, tỉnh, thành, khắp nước Việt Nam, đến các nước láng giềng, khắp tất cả các nước thuộc Châu Á. Sau đó sẽ trải rộng tiếp đến mọi dân và các loài vật ở các nước thuộc Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi và khắp tất cả các đảo, bán đảo, quần đảo lớn nhỏ trên hành tinh này. Lòng yêu thương và tha thứ của ta sẽ phủ trùm khắp hành tinh này, luôn sống để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mình cho người và muôn loài vạn vật khác.
Kế tiếp, ta uớc nguyện cho tất cả mọi người và các loài vật sống chung quanh ta, từ những người thân trong gia đình, cho đến hàng xóm, những người trong thành phố ta ở, tất cả dân ở nước ta, cho đến tất cả dân ở các nước ở châu Á, châu Âu, Châu Mỹ, Châu, Phi, Châu Úc và tất cả dân trên khắp các hòn đảo lớn nhỏ trên trái đất này, sống luôn thương yêu và tha thứ; cung kính và tôn trọng nhau, chỉ nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người; sống biết nhẫn nhục tùy thuận và bằng lòng; luôn nói những lời ái ngữ thương yêu nhau để đem niềm vui và hạnh phúc cho nhau.
Lòng từ có thể chuyển hóa nhân quả từ xấu thành tốt, chuyển hóa người xấu thành người thiện, cảm hóa rất nhiều người và các loài vật, giúp cho mọi người yêu thương nhau hơn, biết tha thứ cho nhau và xích lại gần nhau hơn.
Mỗi sáng sau khi chúng ta thức dậy, hãy tự nhắc nhủ trong lòng rằng:
Hôm nay ta sẽ sống trọn một ngày yêu thương, chia sẻ những gì mình có với tất cả mọi người.
Hôm nay ta sẽ sống biết tha thứ cho tất cả mọi người và mọi vật gây tổn hại đến ta.
Hôm nay ta sẽ luôn biết cung kính và tôn trọng tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn ta.
Hôm nay ta chỉ nói những lời nói thương yêu, nhẹ nhàng, ôn tồn, nhã nhặn và dịu dàng với tất cả mọi người từ em bé cho đến những người gây tổn hại ta.
Hôm nay ta sẽ luôn sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng theo lời nói, ý kiến và việc làm của tất cả mọi người, để mọi người vui, mình vui.
Hôm nay, dù có chuyện gì xảy ra, đều là nhân quả của ta. Ta chỉ nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người.
Khi quen dần với phương pháp này, chúng ta có thể trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra cả thế giới, khắp hành tinh ta đang sống: Ví dụ: Khi rãnh chúng ta ngồi nhắc thầm trong đầu rằng: "Ta sẽ luôn yêu thương và tha thứ cho tất cả mọi người và muôn loài vật; luôn cung kính và tôn trọng tất cả mọi người không phân biệt già trẻ, dân tộc, màu da, sang hèn; luôn sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi ý kiến, lời nói, yêu cầu và việc làm của người để người vui mình vui".
Đầu tiên ta nguyện sẽ sống đúng như câu trên với tất cả mọi người trong gia đình. Sau đó, sẽ trải rộng lòng yêu thương và tha thứ ra đến tất cả hàng xóm, mọi người xung quanh khu ta ở, sau đó trải rộng ra khắp quận huyện, tỉnh, thành, khắp nước Việt Nam, đến các nước láng giềng, khắp tất cả các nước thuộc Châu Á. Sau đó sẽ trải rộng tiếp đến mọi dân và các loài vật ở các nước thuộc Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, Châu Phi và khắp tất cả các đảo, bán đảo, quần đảo lớn nhỏ trên hành tinh này. Lòng yêu thương và tha thứ của ta sẽ phủ trùm khắp hành tinh này, luôn sống để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mình cho người và muôn loài vạn vật khác.
Kế tiếp, ta uớc nguyện cho tất cả mọi người và các loài vật sống chung quanh ta, từ những người thân trong gia đình, cho đến hàng xóm, những người trong thành phố ta ở, tất cả dân ở nước ta, cho đến tất cả dân ở các nước ở châu Á, châu Âu, Châu Mỹ, Châu, Phi, Châu Úc và tất cả dân trên khắp các hòn đảo lớn nhỏ trên trái đất này, sống luôn thương yêu và tha thứ; cung kính và tôn trọng nhau, chỉ nhìn lỗi mình, không nhìn lỗi người; sống biết nhẫn nhục tùy thuận và bằng lòng; luôn nói những lời ái ngữ thương yêu nhau để đem niềm vui và hạnh phúc cho nhau.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
Phương Pháp Như Lý Tác Ý
Để rèn luyện nhân cách đạo đức, phương pháp "Như Lý Tác Ý" không thể thiếu được, thiếu nó thì việc rèn nhân cách sẽ trở nên vô dụng và ít hiệu quả. Vậy phương pháp "Như Lý Tác Ý" là gì?
Đó là phương pháp hướng tâm, là phương pháp tự kỷ ám thị, nhắc tâm, đưa tâm vào thiện pháp.
Ví dụ: Khi tâm chúng ta sân giận, chúng ta nhắc thầm trong đầu: "Tâm không được sân giận, hãy thương yêu và tha thứ. Tâm sân giận là tâm ác, mày làm khổ tao và sẽ làm khổ mọi người, hãy cút đi"
Khi tâm đang tham ăn thì ta nhắc: "tâm không được tham ăn, tâm tham cút đi"
V.v...
Chỉ cần trạch ra một câu ngắn gọn rồi tác ý, nhắc thầm trong đầu cho thấm nhuần thì chúng ta sẽ thấy tánh tình của ta từ từ thay đổi.
Nhớ lúc xưa tánh tình tôi rất xấu thường hay nóng giận, cọc cằn, thô lỗ, tham lam, dối trá,...
Tôi tự soạn ra một danh sách những câu tác ý, để mỗi buổi sáng hoặc khi nào rãnh, tự ngồi một mình nhắc thầm trong đầu. Dần dần những câu đó thấm vào tận thân tâm, sau đó trước khi nói hay làm điều gì tôi đều suy nghĩ chính chắn, quán xét xem mình có phạm vào những điều ác, điều xấu hay không.
Ngoài ra tôi luôn tư duy về những điều ác, thấy rõ chúng có nguồn gốc là tham, sân si mạn nghi, chúng luôn làm khổ mình, khổ người khổ cả hai. Nếu như vậy thì tôi quyết từ bỏ chúng, còn ngược lại, không làm khổ mình, khổ người thì tôi cứ tư duy tăng trưởng những điều thiện để thân tâm thấm nhuần điều thiện, xa lìa điều ác.
Đúng như lời Phật dạy: "Sống luôn ngăn ác, diệt ác; sanh thiện, tăng trưởng thiện"
Đó là phương pháp hướng tâm, là phương pháp tự kỷ ám thị, nhắc tâm, đưa tâm vào thiện pháp.
Ví dụ: Khi tâm chúng ta sân giận, chúng ta nhắc thầm trong đầu: "Tâm không được sân giận, hãy thương yêu và tha thứ. Tâm sân giận là tâm ác, mày làm khổ tao và sẽ làm khổ mọi người, hãy cút đi"
Khi tâm đang tham ăn thì ta nhắc: "tâm không được tham ăn, tâm tham cút đi"
V.v...
Chỉ cần trạch ra một câu ngắn gọn rồi tác ý, nhắc thầm trong đầu cho thấm nhuần thì chúng ta sẽ thấy tánh tình của ta từ từ thay đổi.
Nhớ lúc xưa tánh tình tôi rất xấu thường hay nóng giận, cọc cằn, thô lỗ, tham lam, dối trá,...
Tôi tự soạn ra một danh sách những câu tác ý, để mỗi buổi sáng hoặc khi nào rãnh, tự ngồi một mình nhắc thầm trong đầu. Dần dần những câu đó thấm vào tận thân tâm, sau đó trước khi nói hay làm điều gì tôi đều suy nghĩ chính chắn, quán xét xem mình có phạm vào những điều ác, điều xấu hay không.
Ngoài ra tôi luôn tư duy về những điều ác, thấy rõ chúng có nguồn gốc là tham, sân si mạn nghi, chúng luôn làm khổ mình, khổ người khổ cả hai. Nếu như vậy thì tôi quyết từ bỏ chúng, còn ngược lại, không làm khổ mình, khổ người thì tôi cứ tư duy tăng trưởng những điều thiện để thân tâm thấm nhuần điều thiện, xa lìa điều ác.
Đúng như lời Phật dạy: "Sống luôn ngăn ác, diệt ác; sanh thiện, tăng trưởng thiện"
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
Làm Gì Khi Bị La Mắng Nạt Nộ
Người lớn tiếng trách mắng nạt nộ người khác là người đang giận bực tức trong lòng vì điều gì đó hoặc vì ta đã làm sai điều gì. Do không kiềm chế được cơn giận hoặc không thể tha thứ được hoặc không dằn được sự tức giận, họ đành phải lớn tiếng trách mắng nạt nộ người khác cho hả giận. Sau khi trút ra hết sự tức giận của mình thì trong lòng của họ sẽ thấy nhẹ nhỏm và không còn tức giận nữa.
Khi chúng ta hiểu được sự tức giận là một tâm bệnh, nó có thể làm cho con người mất sáng suốt, trở nên cau có, khó chịu, gương mặt không còn tươi cười nữa, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, có thể gây ra nhiều loại bệnh khác nhau như lên máu, mặt nóng, đau tim, thần kinh bị ức chế, nhức đầu, chóng mặt, nội tạng không làm việc đều hòa,… thì chúng ta hãy thương yêu những người đang tức giận. Nhẫn nhục nghe họ trút hết sự tức giận, xem mình như là một thùng rác cho người khác trút giận.
Giống như một người có nhiều tâm sự buồn phiền, người bạn thân luôn sẵn sàng cho mượn bờ vai để khóc, sẵn sàng lắng nghe tất cả những nỗi buồn, sự oan ức của bạn mình. Sau khi thổ lộ hết tâm sự thì sự buồn phiền sẽ được nguôi giảm rất nhiều và trở nên thoải mái.
Người bị lớn tiếng trách mắng nạt nộ cũng vậy, họ cũng là một bác sĩ trị tâm bệnh, thương yêu nhẫn nhục im lặng lắng nghe tất cả, không đáp lại lời nói nào để giúp người đang giận dữ trút hết những phiền muộn, tức giận trong lòng ra.
Sau khi giúp cho người giận dữ trút hết cơn giận, chúng ta hãy tự kiểm điểm lại mình xem đã làm điều gì sai, tự hứa với bản thân đừng tái phạm để mọi người không phải giận dữ, buồn phiền vì ta nữa. Người tức giận là những người rất đáng thương, họ rất khổ sở, họ đang có tâm bệnh, tâm bệnh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của họ.
Nếu ta bị oan ức thì hãy quán nhân quả. Sở dĩ bị người khác lớn tiếng trách mắng nạt nộ ngày hôm nay là do trong quá khứ ta cũng đã làm như vậy với người khác. Những gì xảy ra hôm nay là bộ phim quay lại cảnh ta đã làm như vậy trong quá khứ với người khác.
Hơn nữa, người đang tức giận là người đang gieo nhân xấu, sẽ gặt quả xấu trong tương lai. Họ rất đáng thương, chúng ta không nên đổ thêm dầu vào lửa. Nhẫn nhục im lặng chính là đang thương yêu họ.
Do vậy để chuyển đổi nhân quả của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện thì chúng ta hãy áp dụng đức thương yêu nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng vui vẻ vào đời sống gia đình và xã hội. Không tranh cãi đúng sai, không đổ lỗi cho ai, chỉ im lặng mỉm cười. Vì ta hiểu rằng ta đã giúp cho họ trút hết cơn giận, ta đã giúp cho họ hết bệnh. Ai làm được điều này, người đó không khác gì một bác sĩ chuyên khoa. Không cần phải mất 7-10 năm đi học, cũng có thể trở thành một bác sĩ trị tâm bệnh.
Tóm lại, để hóa giải những lời nói lớn tiếng trách mắng, nạt nộ của người khác. Chúng ta hãy:
1. Thương yêu nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.
2. Nhìn thấy lỗi mình, không tìm lỗi người.
3. Quán nhân quả.
4. Chuyển đổi nhân quả.
Khi chúng ta hiểu được sự tức giận là một tâm bệnh, nó có thể làm cho con người mất sáng suốt, trở nên cau có, khó chịu, gương mặt không còn tươi cười nữa, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, có thể gây ra nhiều loại bệnh khác nhau như lên máu, mặt nóng, đau tim, thần kinh bị ức chế, nhức đầu, chóng mặt, nội tạng không làm việc đều hòa,… thì chúng ta hãy thương yêu những người đang tức giận. Nhẫn nhục nghe họ trút hết sự tức giận, xem mình như là một thùng rác cho người khác trút giận.
Giống như một người có nhiều tâm sự buồn phiền, người bạn thân luôn sẵn sàng cho mượn bờ vai để khóc, sẵn sàng lắng nghe tất cả những nỗi buồn, sự oan ức của bạn mình. Sau khi thổ lộ hết tâm sự thì sự buồn phiền sẽ được nguôi giảm rất nhiều và trở nên thoải mái.
Người bị lớn tiếng trách mắng nạt nộ cũng vậy, họ cũng là một bác sĩ trị tâm bệnh, thương yêu nhẫn nhục im lặng lắng nghe tất cả, không đáp lại lời nói nào để giúp người đang giận dữ trút hết những phiền muộn, tức giận trong lòng ra.
Sau khi giúp cho người giận dữ trút hết cơn giận, chúng ta hãy tự kiểm điểm lại mình xem đã làm điều gì sai, tự hứa với bản thân đừng tái phạm để mọi người không phải giận dữ, buồn phiền vì ta nữa. Người tức giận là những người rất đáng thương, họ rất khổ sở, họ đang có tâm bệnh, tâm bệnh sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của họ.
Nếu ta bị oan ức thì hãy quán nhân quả. Sở dĩ bị người khác lớn tiếng trách mắng nạt nộ ngày hôm nay là do trong quá khứ ta cũng đã làm như vậy với người khác. Những gì xảy ra hôm nay là bộ phim quay lại cảnh ta đã làm như vậy trong quá khứ với người khác.
Hơn nữa, người đang tức giận là người đang gieo nhân xấu, sẽ gặt quả xấu trong tương lai. Họ rất đáng thương, chúng ta không nên đổ thêm dầu vào lửa. Nhẫn nhục im lặng chính là đang thương yêu họ.
Do vậy để chuyển đổi nhân quả của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện thì chúng ta hãy áp dụng đức thương yêu nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng vui vẻ vào đời sống gia đình và xã hội. Không tranh cãi đúng sai, không đổ lỗi cho ai, chỉ im lặng mỉm cười. Vì ta hiểu rằng ta đã giúp cho họ trút hết cơn giận, ta đã giúp cho họ hết bệnh. Ai làm được điều này, người đó không khác gì một bác sĩ chuyên khoa. Không cần phải mất 7-10 năm đi học, cũng có thể trở thành một bác sĩ trị tâm bệnh.
Tóm lại, để hóa giải những lời nói lớn tiếng trách mắng, nạt nộ của người khác. Chúng ta hãy:
1. Thương yêu nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng.
2. Nhìn thấy lỗi mình, không tìm lỗi người.
3. Quán nhân quả.
4. Chuyển đổi nhân quả.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
SỐNG LÀ TU
Hỏi: Kính thưa Thầy, Sống là tu, tu là sống như thế nào?
Đáp: Thường người ta quan niệm tu hành, khác với cuộc sống. Khi tu phải lìa xa cuộc sống thế gian, không có sống chung với người thế gian, nghĩa là khi đi tu thì phải cắt ái, ly gia, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả sự nghiệp, lìa xa gia đình, những người thân, ngay cả cha mẹ và anh em dòng họ, v.v...Người tu hành phải thực hiện các pháp môn hằng ngày như: ngồi thiền, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật ,v.v…
Những pháp môn này không phải của đức Phật dạy mà của ngoại đạo khéo lồng vào giáo pháp của đức Phật để lừa đảo tín đồ Phật giáo.
Bước vào Đạo Đế tức là bước vào một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Mà Đạo Đế là pháp hành của đạo Phật dạy chúng để sống trong cuộc sống với mọi người thì làm gì có dạy chúng ta ly gia cắt ái, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình sự nghiệp, v.v…Khi bắt đầu vào tu theo pháp môn của đạo Phật thì Ngài dạy chúng ta phải sống đúng chánh kiến, nghĩa là hằng ngày chúng ta phải thấy và hiểu biết: Cái nào thiện thì biết là thiện, cái nào ác thì biết là ác; biết thiện thì tăng trưởng, vì thiện không làm khổ mình khổ người; biết ác thì ngăn ngừa và diệt chúng để không làm khổ mình khổ người. Người thấy và biết sống như vậy là tu tập chánh kiến.
Sống không làm khổ mình, khổ người là tu, mà người tu tập phải sống có chánh kiến như vậy, mà sống có chánh kiến như vậy tức là tu tập. Như vậy đạo Phật không có dạy chúng ta tụng kinh, ngồi thiền, trì chú, cúng bái, tế lễ v.v...mà dạy chúng sống đúng Chánh kiến, sống đúng Chánh tư duy, sống đúng Chánh ngữ, sống đúng Chánh nghiệp, sống đúng Chánh mạng, sống đúng Chánh tinh tấn, sống đúng Chánh niệm và như vậy chúng ta sẽ sống đúng Chánh định tức là Chánh thiền định mà Chánh thiền định, tức là bắt đầu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, mà Sơ Thiền tức là ly dục ly ác pháp, mà ly dục ly ác pháp tức là Chánh kiến.
Như vậy, không phải sống là tu hay sao? Và tu là sống không làm khổ mình khổ người thì có đúng không? Cho nên thiền định là cuộc sống mà tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải thứ thiền định lìa cuộc sống “Ngồi thiền”.
Sự tu tập của đạo Phật không lìa cuộc sống, kẻ nào lìa cuộc sống ngồi thiền, tụng kinh, v.v...thì tu hành không bao giờ có sự giải thoát. Xa lìa cuộc sống mà sống phạm giới, phá giới, thì có khác gì cuộc sống của người thế gian, thì người đó tu không đúng đạo Phật, mà đang tu theo ngoại đạo. Tu theo ngoại đạo thì sẽ rơi vào tà kiến, tà niệm, tà thiền, tà định, thì đời đời kiếp kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
Đáp: Thường người ta quan niệm tu hành, khác với cuộc sống. Khi tu phải lìa xa cuộc sống thế gian, không có sống chung với người thế gian, nghĩa là khi đi tu thì phải cắt ái, ly gia, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả sự nghiệp, lìa xa gia đình, những người thân, ngay cả cha mẹ và anh em dòng họ, v.v...Người tu hành phải thực hiện các pháp môn hằng ngày như: ngồi thiền, tụng kinh, niệm chú, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật ,v.v…
Những pháp môn này không phải của đức Phật dạy mà của ngoại đạo khéo lồng vào giáo pháp của đức Phật để lừa đảo tín đồ Phật giáo.
Bước vào Đạo Đế tức là bước vào một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật. Mà Đạo Đế là pháp hành của đạo Phật dạy chúng để sống trong cuộc sống với mọi người thì làm gì có dạy chúng ta ly gia cắt ái, bỏ vợ, bỏ con, bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ gia đình sự nghiệp, v.v…Khi bắt đầu vào tu theo pháp môn của đạo Phật thì Ngài dạy chúng ta phải sống đúng chánh kiến, nghĩa là hằng ngày chúng ta phải thấy và hiểu biết: Cái nào thiện thì biết là thiện, cái nào ác thì biết là ác; biết thiện thì tăng trưởng, vì thiện không làm khổ mình khổ người; biết ác thì ngăn ngừa và diệt chúng để không làm khổ mình khổ người. Người thấy và biết sống như vậy là tu tập chánh kiến.
Sống không làm khổ mình, khổ người là tu, mà người tu tập phải sống có chánh kiến như vậy, mà sống có chánh kiến như vậy tức là tu tập. Như vậy đạo Phật không có dạy chúng ta tụng kinh, ngồi thiền, trì chú, cúng bái, tế lễ v.v...mà dạy chúng sống đúng Chánh kiến, sống đúng Chánh tư duy, sống đúng Chánh ngữ, sống đúng Chánh nghiệp, sống đúng Chánh mạng, sống đúng Chánh tinh tấn, sống đúng Chánh niệm và như vậy chúng ta sẽ sống đúng Chánh định tức là Chánh thiền định mà Chánh thiền định, tức là bắt đầu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền, mà Sơ Thiền tức là ly dục ly ác pháp, mà ly dục ly ác pháp tức là Chánh kiến.
Như vậy, không phải sống là tu hay sao? Và tu là sống không làm khổ mình khổ người thì có đúng không? Cho nên thiền định là cuộc sống mà tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải thứ thiền định lìa cuộc sống “Ngồi thiền”.
Sự tu tập của đạo Phật không lìa cuộc sống, kẻ nào lìa cuộc sống ngồi thiền, tụng kinh, v.v...thì tu hành không bao giờ có sự giải thoát. Xa lìa cuộc sống mà sống phạm giới, phá giới, thì có khác gì cuộc sống của người thế gian, thì người đó tu không đúng đạo Phật, mà đang tu theo ngoại đạo. Tu theo ngoại đạo thì sẽ rơi vào tà kiến, tà niệm, tà thiền, tà định, thì đời đời kiếp kiếp sẽ trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
Những Lời Nên Và Không Nên Nói
Sống yêu thương là một nghệ thuật sống giúp cho cuộc sống này luôn đầy niềm vui và hạnh phúc. Có nhiều người đặt câu hỏi: Làm sao để có thể sống biết yêu thương nhau? Lòng yêu thương luôn thể hiện qua 3 nơi: suy nghĩ, lời nói và hành động. Những suy nghĩ, lời nói hay hành động nào không làm khổ mình, khổ người hoặc không làm khổ các loài vật khác thì nên suy nghĩ, nên nói và nên làm. Ngược lại, những suy nghĩ, lời nói hoặc hành động nào làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ các loài vật khác thì không nên. Trong bài viết này sẽ nói về sự quan trọng của lời nói.
Qua lời nói chúng ta sẽ biết được con người có yêu thương nhau hay không? Qua lời nói chúng ta có thể đánh giá được giá trị của một con người. Qua lời nói chúng ta có thể biết được là người tốt hay người xấu. Qua lời nói chúng ta biết được mức độ yêu thương,...
Chính lời nói là đường đi lối về của nhân quả. Một lời nói ra luôn sẽ có những hậu quả của chúng. Hậu quả thường thấy ngay trong 2 trường hợp:
Ngay lập tức. Ví dụ khi ta trách mắng người khác thì bị người khác lớn tiếng trách mắng lại hoặc bị họ đánh trả lại, động tay động chân,... Khi ta nói những lời nói thương yêu thì được mọi người thương yêu đáp lại bằng những lời nói chân thật, sự tin cậy, lời nói của họ cũng nhẹ nhàng, ôn tồn hơn,... hoặc bằng những hành động thương yêu như ôm vào lòng, cho tặng quà,...
Trong tương lai. Có ai tự hỏi là tại sao mình bị lừa dối, dối gạt, bị trách mắng, bị chê bai, bị chỉ trích, bị người khác ly gián, mạ nhục,...hay không? Đó là vì trong quá khứ chúng ta đã từng gieo nhân lừa dối, dối gạt, trách mắng, chê bai, chỉ trích, ly gián, mạ nhục,... người khác. Khi ta được mọi người tin cậy, nói những lời nói chân thật thật lòng, không dối gạt là do trong quá khứ chúng ta đã từng nói những lời nói chân thật, thật lòng và không dối gạt mọi người.
Là người có trí tuệ sống biết yêu thương, chúng ta không nên nói bừa bãi, nên lựa lời mà nói, trước khi nói nên suy nghĩ xem lời nói:
Có đúng thời hay phi thời,
Có chân thật hay không chân thật,
Có lợi ích hay không lợi ích,
Có nhu nhuyến hay không nhu nhuyến,
Có nói với tâm không sân giận với lòng "Từ" thương yêu mọi chúng sanh hay không?
Có như vậy ta mới tránh được các nhân quả khổ đau do lời nói được nói ra. Do đó khi nói, ta không nên nói láo, nói lời bịa đặt, nói lời nói thêu dệt , thêm bớt, nói hai lưỡi, nói xấu người , chê bai, chỉ trích, dọa nạt người ta, chửi thề hay nói lời nói hung dữ ác độc. Có tránh các lời nói ác đó thì ta mới gây được lòng tin nơi người khác, là biết sống yêu thương, không có làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ chúng sanh khác.
Ngược lại để có được lời nói tao nhã, chân thật, có lợi ích, ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng. Cụ thể hơn chúng ta hãy cùng xem xét những lời nói sau:
1) Nói vọng ngữ:
Là nói không đúng sự thật, là nói láo, nói dối, nói lường gạt hay nói những lời nói không đáng tin cậy.
Những người nói vọng ngữ là những người ác có âm mưu che đậy sự thật. Họ là những người ích kỹ chỉ nghĩ đến cái lợi cho bản thân. Đồng thời họ cũng sợ mang tiếng, bị tai tiếng, bị khinh chê, hay bị người đời khinh chê những cái sai của họ nên họ muốn che dấu cái xấu của họ cho nên họ nghĩ ra đủ trò để nói láo, lường gạt người khác.
Tất cả những người làm nghề buôn bán đều phạm lỗi lầm này là nói vọng ngữ, không ai là không nói dối. Cho nên họ làm cho mọi người mất lòng tin vào họ. Đến khi nói thật thì không ai tin họ cả. Ví dụ họ nói bán 1 Kg đậu chỉ lời có 1000 đồng.
Những người xem bói, xem tướng, xem tử vi, xem chỉ tay, xem phong thủy, xem ngày giờ chết, xem ngày gả vợ gả chồng là những ngưòi nói dối và không căn cứ.
Chính vì vậy mà những người nói láo sẽ bị mất uy tín và mọi người sẽ tránh xa.
Muốn trở thành một người có đạo đức về vọng ngữ chúng ta phải cương quyết :
· Từ bỏ nói láo
· Tránh xa nói láo: đó là tránh xa người nói láo, tránh xa những nơi nói láo và tránh xa lời nói láo.
· Chỉ nói những lòi nói chân thật.
· Y chỉ sự thật: có sao nói vậy, không phóng đại, không bóp méo, chỉ nói thẳng, nói thật không sợ ai cả.
· Nói những lời chắc chắn đáng tin cậy: là những lời nói đem lại kết quả rõ ràng, không trừu tượng mơ hồ.
· Nói lời nói không lường gạt
Chúng ta hãy thường nhắc tâm mình “Không được nói dối , chỉ nói đúng sự thật, dù cho nói dối không hại ai tôi cũng không nói” Có cương quyết và biết sợ hãi, xấu hổ từng lỗi nhỏ nhặt của mình thì thân tâm mới yên vui đạt được sự thanh thản, an lạc và vô sự.
2) Nói lời nói hai lưỡi:
Là những lời nói ly gián mọi người, đem cái xấu của người này nói cho nguời khác và ngược lại để gây chia rẽ. Đó là những lời nói ác đem đau khổ đến cho mình cho người và cho cả hai. Vì khi người ta biết mình có ý ác như vậy thì người ta sẽ tránh xa, không tin tưởng mình. Lúc đó mình còn mặt mũi đâu mà nhìn người ta.
Làm người muốn có được hạnh phúc an vui thật sự thì ta phải:
· Từ bỏ nói lời nói hai lưỡi.
· Tránh xa nói hai lưỡi: tránh xa người nói hai lưỡi, tránh xa những nơi nói hai lưỡi, và tránh xa lời nói hai lưỡi.
· Sống hòa hợp với những kẻ ly gián bằng đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Chỉ nói lời tốt đẹp về người khác. Khuyên nhủ người ly gián đoàn kết nhau, thương yêu và tha thứ những lỗi lầm của nhau.
· Khuyến khích những kẻ sống hòa hợp: không nói lời nói chia rẽ, vui mừng khi thấy sự hòa hợp, giúp nhau hiểu nhau hơn. Cùng nhau chia sẽ những buồn vui trong cuộc sống.
· Nói những lời đưa đến hòa hợp: Khuyến khích nhau xem nhau như những người trong nhà, không khách sáo tự nhiên. Phải hiểu rõ nhau để nói về những sở thích của nhau v.v Biết xin lỗi , nhận lỗi lầm về phần mình. Nói những lời nói giúp nhau giảm bớt sự lo lắng.
Biết được sự quí báo của sự sống hòa hơp chúng ta hãy thường nhắc tâm mình “Hãy sống hòa hơp với mọi người, biết nhẫn nhục tùy thuận và bằng lòng. Chỉ nói những lời đưa đến sự hòa hợp và đoàn kết .” Đó là ta tự tạo cảnh vui cho mình và cho mọi người.
3) Lời nói phù phiếm:
Là nói những lời nói bịa đặt, thêm bớt làm sai sự thật, không còn mang đến lợi ích cho mình cho người nữa.
Người nói lời phù phiếm là những người ba hoa, nói nhiều, thêm bớt những hiểu biết, kiến giải của họ thêm, nói những lời nói ảo tưởng, trừu tượng không đúng sự thật, không đúng chân lý của cuộc sống và không đúng với khoa học tự nhiên.
Những người như vậy có thể làm hại và tiêu hủy cả một cơ đồ, làm mất đi những chân lý quý báo của con người như các Tổ và các Thầy tu hành chưa đến đâu mà kiến giải và giải thích Phật pháp theo ý của mình làm lệch ý những lời Phật dạy. Làm cho muôn vàn đệ tử theo tu Phật giáo phải khổ sở tu hành, ức chế thân tâm, sống trong điên đảo, đời không ra đời mà đạo cũng không ra đạo.
Để tránh những lời nói phù phiếm chúng ta nên:
· Từ bỏ nói lời nói phù phiếm.
· Tránh xa lời nói phù phiếm: tránh xa người nói phù phiếm, tránh xa nơi nói lời phù phiếm và tránh xa những lời nói phù phiếm.
· Không nói phi thời: khi nói đúng thời, có đủ nhân duyên đầy đủ thì lời nói mới có giá trị, có ích lợi cho mọi người.
· Không nên nói những lời phi chân lý.
· Không nên nói những lời nói không lợi ích.
· Không nên nói những lời phi pháp.
· Không nên nói những lời nói phi luật.
· Không nên nói những lời không đáng giữ gìn: là những lời nói không có ích, là những lời ác, những lời nói ngụy biện che đậy.
Ví du: ta nói nước Mỹ là một nước tự do tín ngưỡng đó là lời nói đúng luật pháp của nước Mỹ.
Để tránh những lời nói phù phiếm chúng ta nên thường xuyên tác ý “Lời nói phù phiếm là những lời nói ảo tưởng đưa đến hại mình, hại người. Ta phải từ bỏ những hiểu biết, kiến giải, tri thức của ta để tránh nói lòi nói phù phiếm.”
4) Lời nói hung dữ và ác độc:
Là những lời nói cực ác, sắc bén như kiếm đâm vào tim người nghe, làm cho người nghe nghẹn ngào, cứng họng, e thắt giọng không nói được lời nào, có thể khóc và xúc động mạnh đưa đến các bệnh tật phát khởi, v.v.
Người nói lời hung dữ ác độc là người tự biến mình thành con thú độc ác và hung dữ không còn chút nào tình người. Chỉ có những người nghe và người ngoài thấy, biết gương mặt, điệu bộ, lời nói và hành động của người nói lời hung dữ và ác độc. Còn chính họ thì như người điên thì làm sao nhận ra được gương mặt, điệu bộ, lời nói và hành động của họ.
Lời nói của họ cộc cằn, gay gắt như một lưỡi dao lam mõng cắt cổ, như một nhát chém nhanh của thanh kiếm bén.
Tự người nói lời hung dữ ác độc làm mất đạo đức giá trị của mình, tự biến mình thành con người không văn hóa, không giáo dục. Tự đẩy mình xuống đáy xã hội, tự mình giết mình. Làm cho mọi người tránh xa, không dám tiếp xúc.
Nếu ai thấy rõ những lời nói ác đó là không tốt thì hãy tự biết xấu hổ, quyết tâm sữa đổi thì chắc chắn sẽ được. Do đó ta phải quyết tâm
A - Từ bỏ những lời độc ác: là những lời nói sau đây:
· Chửi mắng, mạ lị, mạt sát người khác.
· La lớn tiếng, nạt nộ khiến cho người khác sợ hãi.
· Nói châm biếm, chế giễu người, khiến cho người ta xấu hổ và đau khổ.
· Nói vu khống người, nói oan ức cho người.
· Nói lưỡi hai chiều.
· Xưng hô gọi nhau bằng: mày, tao, mi , tớ.v.v
· Nói tục tĩu, chửi thề v.v.
· Nói mắng mỏ nhau.
· Khi nói đến một người nào mà gọi là “đồ đó” hay “thứ đó”, v.v...
· Hù dọa hâm he khiến cho người khác sợ
· Tự thề những lời nói độc ác làm hại mình, hại người. Ví dụ: "nếu nói dối thì ra đường bị xe cán chết"
· Nói những lời nói khuyến khích người khác sát sanh, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác sát sanh.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác trộm cướp , nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác trộm cướp .
· Nói những lời nói khuyến khích người khác tà hạnh, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác tà hạnh.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói dối, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói dối.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói 2 lưỡi, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói 2 lưỡi.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói phù phiếm, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói phù phiếm.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói lòi nói hung dữ, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói lời nói hung dữ.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác tham tài sản của người khác, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác tham tài sản của người khác.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác sân giận, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác sân giận.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác có tà kiến, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác có tà kiến.
B- Tránh xa nói lời nói độc ác: tránh xa người nói lời nói độc ác, tránh xa những nơi nói lời nói độc ác và tránh xa những lời nói độc ác.
C- Nói những lời nói không lỗi lầm: Nghĩa là phải cân nhắc rõ ràng kỹ lưỡng trước khi nói. Phản tỉnh từng lời nói để không làm khổ mình , làm khổ người và làm khổ chúng sanh, ví dụ như:
· Lời nói không chân thật
· Lời nói hung dữ
· Đặt điều nói xấu người khác
· Đem chuyện người này nói chuyện với người kia và ngược lại.
· Xưng hô một cách phách lối.
· Nói oan ức cho người khác
· Nói hai chiều.
· Nói lời thô tục tục tĩu
· Nói lời ly gián
· Nói lật lọng
D- Nói những lời đẹp tai : khiến cho người nghe vui lòng, mang đến cho người nghe sự cảm mến, một niềm vui an lạc và hạnh phúc. Những lời đep tai gồm có:
· Lời ca ngợi khen tặng đúng chánh pháp.
· Lời nói chia sẽ những nỗi niềm ưu tư với những người khác.
· Lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn nhã nhặn và êm dịu.
· Lời nói gợi lòng yêu thương tổ quốc.
· Lời nói gợi lòng hiếu hạnh đối với cha mẹ.
· Lời kêu gọi thiết tha giúp đỡ những người bất hạnh.
· Lời khuyên lơn an ủi giúp cho người khác bình tỉnh để vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, đầy chông gai và nguy hiểm.
· Tiếng xưng hô ngọt ngào, ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, cô, dì, anh, chị, em,v.v
· Lời nói tạo duyên đoàn kết, gây tình yêu thương, xả bỏ lòng thù hận.
· Lời kêu gọi thương yêu sự sống muôn loài, đừng làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
E- Nói những lời dễ thương: là những lời nói ái ngữ, êm dịu, nhẹ nhàng ôn tồn và nhã nhặn, v.v...
F- Nói những lời thông cảm đến tâm mọi người: là những lời nói ôn tồn, nhẹ nhàng khiêm tốn, nhất là những lời nói chân thật, thông hiểu mọi tâm lý của kẻ khác.
G- Những lời nói tao nhã: là những lời nói thanh cao, trang nhã, lịch sự.
H- Nói những lời đẹp lòng nhiều người: là khen tặng và ca ngợi đúng sự thật không nịnh bợ.
Biết áp dụng những lời nói đẹp trên, chúng ta sẽ sửa tính hung dữ và ác độc của mình thành một người có thiện ngôn, nghe đẹp tai, nói đẹp lòng đến tâm của mọi người. Biết đươc hiệu quả như vậy thì ta nên tự nhắc tâm mình “ Từ bỏ nói lời nói hung dữ và độc ác, chỉ nói những lời nói đẹp lòng người khác.”
Tóm lại, lời nói rất quan trọng trong cuộc sống. Khi lỡ nói ra những gì không nên nói thì sẽ làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vạn vật có sự sống khác. Lời nói sai sẽ không thể lấy lại được. Do vậy, trước khi nói nên suy nghĩ cẩn thận.
Để có thói quen biết suy nghĩ trước khi nói, chúng ta hãy tập sống một mình, thường tư duy lại những suy nghĩ, những lời nói và việc làm trong ngày, thường xuyên tự mình nhắc nhủ tâm mình từ bỏ những lời không nên nói. Từ đó thành một thói quen, trước khi nói sẽ biết suy nghĩ, uốn lưỡi 7 lần.
Qua lời nói chúng ta sẽ biết được con người có yêu thương nhau hay không? Qua lời nói chúng ta có thể đánh giá được giá trị của một con người. Qua lời nói chúng ta có thể biết được là người tốt hay người xấu. Qua lời nói chúng ta biết được mức độ yêu thương,...
Chính lời nói là đường đi lối về của nhân quả. Một lời nói ra luôn sẽ có những hậu quả của chúng. Hậu quả thường thấy ngay trong 2 trường hợp:
Ngay lập tức. Ví dụ khi ta trách mắng người khác thì bị người khác lớn tiếng trách mắng lại hoặc bị họ đánh trả lại, động tay động chân,... Khi ta nói những lời nói thương yêu thì được mọi người thương yêu đáp lại bằng những lời nói chân thật, sự tin cậy, lời nói của họ cũng nhẹ nhàng, ôn tồn hơn,... hoặc bằng những hành động thương yêu như ôm vào lòng, cho tặng quà,...
Trong tương lai. Có ai tự hỏi là tại sao mình bị lừa dối, dối gạt, bị trách mắng, bị chê bai, bị chỉ trích, bị người khác ly gián, mạ nhục,...hay không? Đó là vì trong quá khứ chúng ta đã từng gieo nhân lừa dối, dối gạt, trách mắng, chê bai, chỉ trích, ly gián, mạ nhục,... người khác. Khi ta được mọi người tin cậy, nói những lời nói chân thật thật lòng, không dối gạt là do trong quá khứ chúng ta đã từng nói những lời nói chân thật, thật lòng và không dối gạt mọi người.
Là người có trí tuệ sống biết yêu thương, chúng ta không nên nói bừa bãi, nên lựa lời mà nói, trước khi nói nên suy nghĩ xem lời nói:
Có đúng thời hay phi thời,
Có chân thật hay không chân thật,
Có lợi ích hay không lợi ích,
Có nhu nhuyến hay không nhu nhuyến,
Có nói với tâm không sân giận với lòng "Từ" thương yêu mọi chúng sanh hay không?
Có như vậy ta mới tránh được các nhân quả khổ đau do lời nói được nói ra. Do đó khi nói, ta không nên nói láo, nói lời bịa đặt, nói lời nói thêu dệt , thêm bớt, nói hai lưỡi, nói xấu người , chê bai, chỉ trích, dọa nạt người ta, chửi thề hay nói lời nói hung dữ ác độc. Có tránh các lời nói ác đó thì ta mới gây được lòng tin nơi người khác, là biết sống yêu thương, không có làm khổ mình, làm khổ người và làm khổ chúng sanh khác.
Ngược lại để có được lời nói tao nhã, chân thật, có lợi ích, ôn tồn, nhã nhặn, nhẹ nhàng. Cụ thể hơn chúng ta hãy cùng xem xét những lời nói sau:
1) Nói vọng ngữ:
Là nói không đúng sự thật, là nói láo, nói dối, nói lường gạt hay nói những lời nói không đáng tin cậy.
Những người nói vọng ngữ là những người ác có âm mưu che đậy sự thật. Họ là những người ích kỹ chỉ nghĩ đến cái lợi cho bản thân. Đồng thời họ cũng sợ mang tiếng, bị tai tiếng, bị khinh chê, hay bị người đời khinh chê những cái sai của họ nên họ muốn che dấu cái xấu của họ cho nên họ nghĩ ra đủ trò để nói láo, lường gạt người khác.
Tất cả những người làm nghề buôn bán đều phạm lỗi lầm này là nói vọng ngữ, không ai là không nói dối. Cho nên họ làm cho mọi người mất lòng tin vào họ. Đến khi nói thật thì không ai tin họ cả. Ví dụ họ nói bán 1 Kg đậu chỉ lời có 1000 đồng.
Những người xem bói, xem tướng, xem tử vi, xem chỉ tay, xem phong thủy, xem ngày giờ chết, xem ngày gả vợ gả chồng là những ngưòi nói dối và không căn cứ.
Chính vì vậy mà những người nói láo sẽ bị mất uy tín và mọi người sẽ tránh xa.
Muốn trở thành một người có đạo đức về vọng ngữ chúng ta phải cương quyết :
· Từ bỏ nói láo
· Tránh xa nói láo: đó là tránh xa người nói láo, tránh xa những nơi nói láo và tránh xa lời nói láo.
· Chỉ nói những lòi nói chân thật.
· Y chỉ sự thật: có sao nói vậy, không phóng đại, không bóp méo, chỉ nói thẳng, nói thật không sợ ai cả.
· Nói những lời chắc chắn đáng tin cậy: là những lời nói đem lại kết quả rõ ràng, không trừu tượng mơ hồ.
· Nói lời nói không lường gạt
Chúng ta hãy thường nhắc tâm mình “Không được nói dối , chỉ nói đúng sự thật, dù cho nói dối không hại ai tôi cũng không nói” Có cương quyết và biết sợ hãi, xấu hổ từng lỗi nhỏ nhặt của mình thì thân tâm mới yên vui đạt được sự thanh thản, an lạc và vô sự.
2) Nói lời nói hai lưỡi:
Là những lời nói ly gián mọi người, đem cái xấu của người này nói cho nguời khác và ngược lại để gây chia rẽ. Đó là những lời nói ác đem đau khổ đến cho mình cho người và cho cả hai. Vì khi người ta biết mình có ý ác như vậy thì người ta sẽ tránh xa, không tin tưởng mình. Lúc đó mình còn mặt mũi đâu mà nhìn người ta.
Làm người muốn có được hạnh phúc an vui thật sự thì ta phải:
· Từ bỏ nói lời nói hai lưỡi.
· Tránh xa nói hai lưỡi: tránh xa người nói hai lưỡi, tránh xa những nơi nói hai lưỡi, và tránh xa lời nói hai lưỡi.
· Sống hòa hợp với những kẻ ly gián bằng đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng. Chỉ nói lời tốt đẹp về người khác. Khuyên nhủ người ly gián đoàn kết nhau, thương yêu và tha thứ những lỗi lầm của nhau.
· Khuyến khích những kẻ sống hòa hợp: không nói lời nói chia rẽ, vui mừng khi thấy sự hòa hợp, giúp nhau hiểu nhau hơn. Cùng nhau chia sẽ những buồn vui trong cuộc sống.
· Nói những lời đưa đến hòa hợp: Khuyến khích nhau xem nhau như những người trong nhà, không khách sáo tự nhiên. Phải hiểu rõ nhau để nói về những sở thích của nhau v.v Biết xin lỗi , nhận lỗi lầm về phần mình. Nói những lời nói giúp nhau giảm bớt sự lo lắng.
Biết được sự quí báo của sự sống hòa hơp chúng ta hãy thường nhắc tâm mình “Hãy sống hòa hơp với mọi người, biết nhẫn nhục tùy thuận và bằng lòng. Chỉ nói những lời đưa đến sự hòa hợp và đoàn kết .” Đó là ta tự tạo cảnh vui cho mình và cho mọi người.
3) Lời nói phù phiếm:
Là nói những lời nói bịa đặt, thêm bớt làm sai sự thật, không còn mang đến lợi ích cho mình cho người nữa.
Người nói lời phù phiếm là những người ba hoa, nói nhiều, thêm bớt những hiểu biết, kiến giải của họ thêm, nói những lời nói ảo tưởng, trừu tượng không đúng sự thật, không đúng chân lý của cuộc sống và không đúng với khoa học tự nhiên.
Những người như vậy có thể làm hại và tiêu hủy cả một cơ đồ, làm mất đi những chân lý quý báo của con người như các Tổ và các Thầy tu hành chưa đến đâu mà kiến giải và giải thích Phật pháp theo ý của mình làm lệch ý những lời Phật dạy. Làm cho muôn vàn đệ tử theo tu Phật giáo phải khổ sở tu hành, ức chế thân tâm, sống trong điên đảo, đời không ra đời mà đạo cũng không ra đạo.
Để tránh những lời nói phù phiếm chúng ta nên:
· Từ bỏ nói lời nói phù phiếm.
· Tránh xa lời nói phù phiếm: tránh xa người nói phù phiếm, tránh xa nơi nói lời phù phiếm và tránh xa những lời nói phù phiếm.
· Không nói phi thời: khi nói đúng thời, có đủ nhân duyên đầy đủ thì lời nói mới có giá trị, có ích lợi cho mọi người.
· Không nên nói những lời phi chân lý.
· Không nên nói những lời nói không lợi ích.
· Không nên nói những lời phi pháp.
· Không nên nói những lời nói phi luật.
· Không nên nói những lời không đáng giữ gìn: là những lời nói không có ích, là những lời ác, những lời nói ngụy biện che đậy.
Ví du: ta nói nước Mỹ là một nước tự do tín ngưỡng đó là lời nói đúng luật pháp của nước Mỹ.
Để tránh những lời nói phù phiếm chúng ta nên thường xuyên tác ý “Lời nói phù phiếm là những lời nói ảo tưởng đưa đến hại mình, hại người. Ta phải từ bỏ những hiểu biết, kiến giải, tri thức của ta để tránh nói lòi nói phù phiếm.”
4) Lời nói hung dữ và ác độc:
Là những lời nói cực ác, sắc bén như kiếm đâm vào tim người nghe, làm cho người nghe nghẹn ngào, cứng họng, e thắt giọng không nói được lời nào, có thể khóc và xúc động mạnh đưa đến các bệnh tật phát khởi, v.v.
Người nói lời hung dữ ác độc là người tự biến mình thành con thú độc ác và hung dữ không còn chút nào tình người. Chỉ có những người nghe và người ngoài thấy, biết gương mặt, điệu bộ, lời nói và hành động của người nói lời hung dữ và ác độc. Còn chính họ thì như người điên thì làm sao nhận ra được gương mặt, điệu bộ, lời nói và hành động của họ.
Lời nói của họ cộc cằn, gay gắt như một lưỡi dao lam mõng cắt cổ, như một nhát chém nhanh của thanh kiếm bén.
Tự người nói lời hung dữ ác độc làm mất đạo đức giá trị của mình, tự biến mình thành con người không văn hóa, không giáo dục. Tự đẩy mình xuống đáy xã hội, tự mình giết mình. Làm cho mọi người tránh xa, không dám tiếp xúc.
Nếu ai thấy rõ những lời nói ác đó là không tốt thì hãy tự biết xấu hổ, quyết tâm sữa đổi thì chắc chắn sẽ được. Do đó ta phải quyết tâm
A - Từ bỏ những lời độc ác: là những lời nói sau đây:
· Chửi mắng, mạ lị, mạt sát người khác.
· La lớn tiếng, nạt nộ khiến cho người khác sợ hãi.
· Nói châm biếm, chế giễu người, khiến cho người ta xấu hổ và đau khổ.
· Nói vu khống người, nói oan ức cho người.
· Nói lưỡi hai chiều.
· Xưng hô gọi nhau bằng: mày, tao, mi , tớ.v.v
· Nói tục tĩu, chửi thề v.v.
· Nói mắng mỏ nhau.
· Khi nói đến một người nào mà gọi là “đồ đó” hay “thứ đó”, v.v...
· Hù dọa hâm he khiến cho người khác sợ
· Tự thề những lời nói độc ác làm hại mình, hại người. Ví dụ: "nếu nói dối thì ra đường bị xe cán chết"
· Nói những lời nói khuyến khích người khác sát sanh, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác sát sanh.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác trộm cướp , nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác trộm cướp .
· Nói những lời nói khuyến khích người khác tà hạnh, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác tà hạnh.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói dối, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói dối.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói 2 lưỡi, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói 2 lưỡi.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói phù phiếm, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói phù phiếm.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác nói lòi nói hung dữ, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác nói lời nói hung dữ.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác tham tài sản của người khác, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác tham tài sản của người khác.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác sân giận, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác sân giận.
· Nói những lời nói khuyến khích người khác có tà kiến, nói lời nói tán thán hoan hỷ người khác có tà kiến.
B- Tránh xa nói lời nói độc ác: tránh xa người nói lời nói độc ác, tránh xa những nơi nói lời nói độc ác và tránh xa những lời nói độc ác.
C- Nói những lời nói không lỗi lầm: Nghĩa là phải cân nhắc rõ ràng kỹ lưỡng trước khi nói. Phản tỉnh từng lời nói để không làm khổ mình , làm khổ người và làm khổ chúng sanh, ví dụ như:
· Lời nói không chân thật
· Lời nói hung dữ
· Đặt điều nói xấu người khác
· Đem chuyện người này nói chuyện với người kia và ngược lại.
· Xưng hô một cách phách lối.
· Nói oan ức cho người khác
· Nói hai chiều.
· Nói lời thô tục tục tĩu
· Nói lời ly gián
· Nói lật lọng
D- Nói những lời đẹp tai : khiến cho người nghe vui lòng, mang đến cho người nghe sự cảm mến, một niềm vui an lạc và hạnh phúc. Những lời đep tai gồm có:
· Lời ca ngợi khen tặng đúng chánh pháp.
· Lời nói chia sẽ những nỗi niềm ưu tư với những người khác.
· Lời nói nhẹ nhàng, ôn tồn nhã nhặn và êm dịu.
· Lời nói gợi lòng yêu thương tổ quốc.
· Lời nói gợi lòng hiếu hạnh đối với cha mẹ.
· Lời kêu gọi thiết tha giúp đỡ những người bất hạnh.
· Lời khuyên lơn an ủi giúp cho người khác bình tỉnh để vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, đầy chông gai và nguy hiểm.
· Tiếng xưng hô ngọt ngào, ông, bà, cha, mẹ, chú, bác, cô, dì, anh, chị, em,v.v
· Lời nói tạo duyên đoàn kết, gây tình yêu thương, xả bỏ lòng thù hận.
· Lời kêu gọi thương yêu sự sống muôn loài, đừng làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.
E- Nói những lời dễ thương: là những lời nói ái ngữ, êm dịu, nhẹ nhàng ôn tồn và nhã nhặn, v.v...
F- Nói những lời thông cảm đến tâm mọi người: là những lời nói ôn tồn, nhẹ nhàng khiêm tốn, nhất là những lời nói chân thật, thông hiểu mọi tâm lý của kẻ khác.
G- Những lời nói tao nhã: là những lời nói thanh cao, trang nhã, lịch sự.
H- Nói những lời đẹp lòng nhiều người: là khen tặng và ca ngợi đúng sự thật không nịnh bợ.
Biết áp dụng những lời nói đẹp trên, chúng ta sẽ sửa tính hung dữ và ác độc của mình thành một người có thiện ngôn, nghe đẹp tai, nói đẹp lòng đến tâm của mọi người. Biết đươc hiệu quả như vậy thì ta nên tự nhắc tâm mình “ Từ bỏ nói lời nói hung dữ và độc ác, chỉ nói những lời nói đẹp lòng người khác.”
Tóm lại, lời nói rất quan trọng trong cuộc sống. Khi lỡ nói ra những gì không nên nói thì sẽ làm khổ mình, khổ người và khổ các loài vạn vật có sự sống khác. Lời nói sai sẽ không thể lấy lại được. Do vậy, trước khi nói nên suy nghĩ cẩn thận.
Để có thói quen biết suy nghĩ trước khi nói, chúng ta hãy tập sống một mình, thường tư duy lại những suy nghĩ, những lời nói và việc làm trong ngày, thường xuyên tự mình nhắc nhủ tâm mình từ bỏ những lời không nên nói. Từ đó thành một thói quen, trước khi nói sẽ biết suy nghĩ, uốn lưỡi 7 lần.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
LỢI ÍCH SỐNG MƯỜI ĐIỀU LÀNH - LỢI ÍCH CỦA HÀNH THẬP THIỆN
Mười lợi ích này được trích ra từ sách “Hành Thập Thiện” của thầy Thích Thông Lạc tại đây. hoặc tại tu viện Chơn Như.
Các bạn có thể tải sách đọc audio "Hành thập thiện" tại đây.
I/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy: Nếu ai không sát sanh thì sẽ được mười điều lợi ích như sau:
1/. Tất cả chúng sanh đều kính mến.
2/. Lòng từ bi mở rộng đối với tất cả chúng sanh.
3/. Trừ sạch thói quen giận hờn.
4/. Thân thể thường được mạnh khỏe
5/. Tuổi thọ được lâu dài.
6/. Thường được Thiên Thần hộ trì. (Thiên thần không có nghĩa là một vị thiên thần, mà là một năng lực thiện từ việc làm thiện phóng xuất ra để chuyển hoá ác nghiệp tức là khổ ách)
7/. Ngủ ngon giấc và không chiêm bao, ác mộng.
8/. Trừ được các mối thù oán.
9/. Khỏi bị đọa vào ba đường ác.
10/. Sau khi chết được sanh lên cõi Trời. (Cõi trời không có nghĩa là thế giới siêu hình mà là một trạng thái tâm an ổn, thanh thản,...)
II/ Kinh MƯỜI ĐIỀU LÀNH dạy: “Nếu không trộm cắp mà còn bố thí thì sẽ được mười quả báo phước lành như sau”:
1/ Tiền của có dư, không bị vua quan, giặc giã cướp mất, không bị nạn lũ
lụt trôi, lửa cháy, hay con cái phá tán.
2/ Được nhiều người kính mến và tin cậy.
3/ Không bị ai lừa dối gạt gẫm.
4/ Xa gần đều khen ngợi lòng ngay thẳng của mình.
5/ Lòng được an ổn, không lo sợ về sự tổn hại nào.
6/ Tiếng lành đồn xa.
7/ Ở chỗ đông người lòng không khủng khiếp.
8/ Tiền của, tánh mạng, nhan sắc, sức khỏe an vui, biện tài vô ngại.
9/ Thường sẵn lòng bố thí cho tất cả chúng sanh.
10/ Khi chết được sanh lên cõi Trời.
III/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy rằng: Không tà dâm và giữ được tiết hạnh sẽ được bốn điều lợi ích:
1) Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) đều được vẹn toàn.
2) Đoạn trừ hết thảy những phiền não quấy nhiễu.
3) Ở trong đời được người khen ngợi, được tiếng tốt.
4) Vợ con không ai dám xâm phạm.
IV/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy: Người không nói dối được tám điều lợi ích như sau:
1/. Được thế gian kính phục.
2/. Lời nói nào cũng đúng lý, được người, trời kính yêu.
3/. Miệng thường thơm sạch, nói ra có mùi thơm, như hoa ưu bát la.
4/. Thường dùng lời êm ái, an ủi chúng sanh.
5/. Được hưởng lạc thú như ý nguyện, và ba nghiệp đều trong sạch.
6/. Lời nói không buồn giận, mà còn tỏ ra vui vẻ.
7/. Lời nói tôn trọng, được người trời đều vâng theo.
8/. Trí tuệ thù thắng, không ai hơn.
V/ Người không nói lời thêu dệt sẽ được ba món công đức mà kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy:
1/. Được người trí yêu mến.
2/. Thường đáp được những câu hỏi khó khăn.
3/. Được làm người có uy tín cao quý trong cõi Trời và cõi người.
VI/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy: Kẻ nào nói lời hòa giải thì được năm điều không thể phá hoại:
1/. Được nhân bất hoại, vì bản thân mình không bao giờ có ý hại người.
2/. Được làm con trong dòng họ sum họp, vì nhân mình không gây chia rẽ bà con quyến thuộc của người.
3/. Được đức tin bất hoại vì nhân thuận theo nghiệp đời trước của mình.
4/. Được pháp hạnh bất hoại vì nhân chỗ tu của mình rất kiên cố.
5/.Được thiện hữu tri thức bất hoại vì nhân mình không hay nói dối người.
VII/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy rằng: Kẻ nào không nói lời hung dữ sẽ được tám món công đức:
1/. Không nói sai pháp.
2/. Nói ra lời nào cũng có ích lợi.
3/. Nói lời nào cũng đúng chơn lý.
4/. Lời nói nào cũng khôn khéo.
5/. Nói điều chi ai cũng vâng theo.
6/. Lời nói nào thốt ra cũng được người ta tin dùng.
7/.Nói điều chi cũng không có ai chê bai.
8/. Nói ra lời nào cũng được yêu mến.
VIII/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy rằng: Kẻ nào không tham đắm dục lạc thế gian sẽ được năm món công đức tự tại:
1/. Ba nghiệp thân, khẩu, ý được tự tại, vì nhơn các căn được đầy đủ.
2/. Của cải được tự tại, vì tất cả giặc thù đều không làm hại được.
3/. Phước đức tự tại, vì khi tâm muốn gì đều được như ý.
4/. Ngôi vua tự tại, vì các của cải quí báu đều được người đem đến dâng hiến.
5/. Được hưởng phần lợi gấp trăm lần mình đã định, vì kiếp trước mình không có lòng bỏn xẻn.
IX/ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy rằng: Kẻ nào làm chủ được tâm sân thì sẽ được tám món công đức:
1/. Tâm không tổn não.
2/. Tâm không giận hờn.
3/. Tâm không tranh giành.
4/. Tâm được nhu hòa, ngay thẳng.
5/. Tâm được từ bi như Phật.
6/. Tâm thường làm lợi ích và an ổn cho chúng sanh.
7/. Thân tướng được trang nghiêm, mọi người đều tôn kính.
8/. Có đức nhu hòa, nhẫn nhục, sau được lên cõi Trời Phạm Thiên.
X/ Nếu người hành Thập Thiện phá trừ được si mê thì sẽ thành tựu mười công đức như Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy:
1.- Được ý vui chân thiện và bạn chân thiện.
2.- Tin sâu nhân quả, thà bỏ thân mạng chớ không làm điều ác.
3.- Chỉ quy y theo Phật, không quy y theo Thiên Thần ngoại đạo.
4.- Tâm được ngay thẳng chánh kiến.
5.- Thường sanh lên cõi Trời, khỏi bị đọa ba đường ác.
6.- Phước huệ không lường, thường tăng lên mãi.
7.- Dứt hẳn đường tà, chăm tu chánh đạo.
8.- Không còn lòng chấp ngã, bỏ hết nghiệp ác.
9.- Trụ nơi chánh kiến.
10.- Khỏi bị nạn dữ.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
SÁU NGHỀ NÊN TRÁNH
Người cư sĩ có 6 nghề không nên làm: Sáu nghề ác.
Trong kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã ngăn cấm người cư sĩ không nên hành sáu nghề ác, vì sáu nghề này không phù hợp với tâm từ bi của Đạo Phật. Sáu nghề ác đó như sau:
1. Không làm nghề săn bắn, nghề săn bắn là một nghề cực ác, giết hại biết bao nhiêu loài cầm thú rừng: nai, hươu, khỉ, chồn, heo, gà rừng và các loại chim chóc khác nữa v.v...
2. Không làm nghề chài lưới, nghề chài lưới cũng là một nghề rất độc ác, chuyên bắt tôm cá, giết hại loài thủy tộc như: đặt rọ, lờ, chài, lưới, vó, câu v.v...
3. Không làm nghề buôn bán thịt sống, nghề buôn bán thịt sống là nghề sát sanh trâu, bò, heo, dê, ngựa, chó, gà, vịt v.v...
Người làm nghề này, gọi là đồ tể giết gia súc bán từng ký lô cho người khác mua về làm thực phẩm, nghề này rất độc ác, giết hại chúng sanh không chút lòng thương xót.
4. Không làm nghề buôn bán thịt chín, nghề buôn bán thịt chín là nghề lấy thịt chúng sanh nấu thành thực phẩm như: phở, cháo lòng, hủ tiếu, bánh canh, bì chả, nem v.v... Nghề này cũng là nghề độc ác, người hành nghề này cũng đánh mất tâm từ bi.
5. Không làm nghề sản xuất và buôn bán rượu, vì sản xuất và buôn bán rượu khiến người ta nghiện ngập say sưa, không còn trí thông minh, nên họ có thể la xóm, mắng làng, chửi vợ mắng con, bất kể cha, mẹ, anh, em ruột thịt, không biết dơ sạch, nằm ngoài đường, ngủ bụi, ngủ bờ, nằm sương nằm nắng, làm mất thể diện con người, thân thể dễ sanh bệnh tật, tạo cảnh khổ đau cho cha, mẹ, anh, em, vợ, con v.v...
6. Không làm nghề buôn bán người, nghề buôn bán người là nghề mãi nô (bán nô lệ) nghề buôn hương bán phấn (nghề mãi dâm) cũng là nghề buôn bán người. Nghề này rất độc ác, dùng thế lực, tiền bạc, vật chất bắt ép những người cô thân thất thế đang cảnh nghèo đói bán thân làm nô lệ, làm gái mãi dâm, khiến cho gia đình khổ đau và tan nát.
Nghề mãi dâm là một nghề tồi bại làm mất nhân phẩm của con người, khiến con người không còn đạo đức và còn tệ hơn loài thú vật, vì con vật có lúc dâm và cũng có lúc không dâm, cho nên kẻ làm nghề bán trôn nuôi miệng là kẻ làm xấu xa thân phận làm người.
Sáu nghề nghiệp này, là sáu nghề nghiệp độc ác, giết hại chúng sanh và làm khổ đau bệnh tật muôn người, nhất là nghề sản xuất và bán rượu, sản xuất và bán thuốc phiện, sản xuất và bán xì-ke ma túy, sản xuất và bán thuốc lá, thuốc lào v..v.. là những thứ gây bệnh tật nghiện ngập hao tổn tiền bạc, của cải, tài sản biết bao nhiêu người, trải qua bao nhiêu thế hệ phải gánh lấy hậu quả đau khổ này.
Do thế, những người hành những nghề nghiệp này để nuôi thân mạng, cha mẹ, gia đình và làm giàu trên sự đau khổ của muôn người muôn vật.
Họ là những người vô minh không thấy luật nhân quả đang chi phối diễn biến từng phút giây trong mỗi con người, luật nhân quả sẽ không tha thứ một ai, nếu ai đã làm điều ác thì phải hứng lấy hậu quả khổ đau.
Nếu quý vị không tin lời Phật dạy, thì hỏi thăm những gia đình đang hành những nghề nghiệp này. Trông bề ngoài có vẻ giàu sang sung sướng nhưng bên trong chẳng có hạnh phúc gì cả. Thường những gia đình này hay có những người đau ốm bệnh tật, không người này thì đến người khác, tai nạn thường xảy ra, khiến gia đạo bất an, lúc nào cũng lo lắng sợ sệt, cuộc sống của gia đình họ chẳng bao giờ êm ấm yên vui hạnh phúc.
Làm ác thì phải lãnh quả khổ. Không làm sao và cũng không ai cứu thoát khổ được.
Vì thế, Đức Phật biết rất rõ nhân quả thiện ác, nên Ngài muốn cho đệ tử của mình thoát ra khỏi cảnh khổ đau, Ngài thường ngăn cấm không cho người cư sĩ hành sáu nghề nghiệp ác, dù nghề nghiệp ấy kiếm tiền rất dễ, nhưng nó không phải là hạnh phúc chân chánh. Do đó, Ngài muốn cho các đệ tử của mình sống an vui hạnh phúc chân chánh, không còn gặp cảnh đau khổ nữa.
Chính vì hằng ngày, trong cuộc sống chúng ta đã tạo ra nhiều nhân ác nên phải chịu những quả khổ đau đời đời kiếp kiếp, chứ không ai mang đến quả khổ ấy cho ta được dù kẻ đó là quỉ thần ác độc. Cũng như không có một vị thần Thánh nào hay một Đức Phật cùng những vị Bồ Tát nào ban phúc lành cho chúng ta được. Xin các bạn lưu ý cho điểm này.
Nhân quả là một đạo luật công bằng, chính chúng ta làm ra là chúng ta phải chịu, không thể người khác chịu thay cho chúng ta được. Vì thế, không ai mang đến khổ đau cho chúng ta mà chính là do chúng ta cũng như không ai mang đến hạnh phúc an vui cho chúng ta mà cũng do chính chúng ta.
Người cư sĩ không thấy luật nhân quả rất công bằng và công lý, cho nên trong cuộc sống họ không biết chọn nghề nghiệp, chỉ thấy nghề nào làm ra tiền và có cơm ăn áo mặc dễ dàng, nhất là môi trường sống, nơi đó mọi người làm nghề sát sanh là dễ kiếm tiền thì họ bắt chước làm theo, nhưng không ngờ lại tạo ra vô vàn tội ác. Từ những hành động tạo ra sự chết chóc và đau khổ cho chúng sanh thì chính bản thân họ và ngay cả gia đình đều phải thọ lãnh những quả khổ đau ấy từ người này đến người khác.
Là đệ tử của Đức Phật, những hàng cư sĩ phải lưu ý sáu nghề nghiệp ác độc này, luôn luôn phải vâng theo lời dạy của Đức Phật thì mới tìm thấy chơn hạnh phúc, an vui của cá nhân và của cả gia đình mình.
Hành nghề đúng như vậy mới gọi là chánh nghiệp, chính nghề nghiệp chân chánh mới nuôi được chánh mạng của mình và của mọi người trong gia đình. Hạnh phúc từ ấy sẽ đến với các bạn. Các bạn có tin những lời dạy này không?
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,
PHƯỚC HỮU LẬU VÀ PHƯỚC VÔ LẬU
Tu theo đạo Phật thì không nên cầu phước hữu lậu, vì phước hữu lậu là phước về danh và lợi mà danh lợi là ác pháp. Thế nên, người tu theo đạo Phật phải xa lià danh lợi là ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp là phước vô lậu, phước vô lậu là giải thoát. Vì thế nên người tu sĩ đạo Phật khước từ phước hữu lậu như chùa to, Phật lớn, tiền bạc, danh lợi. Đức phật dạy: "Có danh có lợi thì nên ẩn bóng".
Người có phước hữu lậu giàu sang, quyền tước mà không từ bỏ, xa lià thì khó mà ngăn ác, diệt ác pháp, và không thể nào ly dục ly ác pháp được. Ta phải hiểu rằng phước hữu lậu là phước báo trong đau khổ. Cho nên người càng có phước báo nầy thì càng đau khổ nhiều. Cứ nghiệm cuộc đời của các Tổng Thống Mỹ, và người có hàng tỷ bạc như Minh Phụng, Trần Đàm v.v... thì thấy họ đang khổ hơn chúng ta nhiều. Có khổ đau là có ác pháp. Người giàu sang, quyền quí cũng có ác pháp, người tu hành không đúng chánh pháp cũng là ác pháp (tu khổ hạnh, hành thân, hoại thể, ráng ngồi thiền thật lâu chân đau nhức như ai bẽ giò, tức ngực, v.v...).
Phước báo hữu lậu và phước vô lậu không thể nào đi chung với nhau được. Người chấp nhận phước hữu lậu thì không thể nào có phước vô lậu được, ngược lại, người chấp nhận phước vô lậu thì từ khước phước báo hữu lậu. Các nhà học gỉa chỉ nghiên cứu chứ không có kinh nghiệm tu chứng nên đã hiểu sai lệch về Phật giáo. Vì vậy các ngài hướng dẫn người tu làm những điều lành như: trai tăng, cúng dường, xây tháp, đúc chuông, và làm những việc từ thiện khác nữa v.v... Đó là tạo phước hữu lậu, cho nên cuộc sống họ không giải thoát. Họ (các thí chủ) chỉ được tiếng khen và vô tình trở thành người cho vay để lấy nặng lãi. "vay một, trả mười". Ngược lại, Phật giáo không làm từ thiện, mà chỉ sống đúng đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Cho nên khi thấy ai khổ là thấy nhân quả của họ, chứ không phải ta làm khổ họ, mà chính họ tự làm khổ họ. Chúng ta có duyên gặp họ trong cảnh khổ, đó là nhân duyên nhân quả của ta đối với họ nên mới có sự gặp gỡ nầy thì chúng ta giúp đỡ và an ủi họ tùy theo nhân quả của họ.
Chúng ta không làm từ thiện như các nhà Đại Thừa vì chúng ta không làm sao cho họ hết khổ được, tại họ tạo ra nhân ác thì họ phải gánh chịu lấy quả khổ. Chúng ta cũng không làm từ thiện (theo lời dạy của một số tu sĩ)... làm thiện để mong cầu được lên Thiên Đàng, Cực Lạc, để được làm quan, giàu sang, sung sướng, v.v...). Chúng ta chỉ biết làm theo đạo đức làm người mà Đức Phật đã dạy: "Không làm khổ mình, khổ người".
Người không hiểu Phật pháp, tuyên dương "phước huệ song tu" là một sự sai lầm lớn. Có phước hữu lậu làm sao tu huệ được? Huệ là giới luật, là đức hạnh của con người và của các bậc Thánh Tăng. Đối với các vị Thánh Tăng thì chỉ có ba y và một bình bát, đi xin ăn mỗi ngày thì làm sao có phước hữu lậu cho được? Trong kinh Nguyên Thủy, Đức Phật đã xác định rõ ràng: "Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ".
Người có phước hữu lậu thì không bao giờ có trí tuệ; người có phước hữu lậu thì không bao giờ giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật; người có phước hữu lậu thì không bao giờ được gọi là Trưởng Lão, nghĩa là không chứng quả giải thoát, vì chẳng bao giờ ly dục ly ác pháp. Chẳng ly dục y ác pháp thì chẳng bao giờ ngăn ác diệt ác pháp, do đó tu hành chỉ uổng phí một đời mà thôi.
Người có phước hữu lậu giàu sang, quyền tước mà không từ bỏ, xa lià thì khó mà ngăn ác, diệt ác pháp, và không thể nào ly dục ly ác pháp được. Ta phải hiểu rằng phước hữu lậu là phước báo trong đau khổ. Cho nên người càng có phước báo nầy thì càng đau khổ nhiều. Cứ nghiệm cuộc đời của các Tổng Thống Mỹ, và người có hàng tỷ bạc như Minh Phụng, Trần Đàm v.v... thì thấy họ đang khổ hơn chúng ta nhiều. Có khổ đau là có ác pháp. Người giàu sang, quyền quí cũng có ác pháp, người tu hành không đúng chánh pháp cũng là ác pháp (tu khổ hạnh, hành thân, hoại thể, ráng ngồi thiền thật lâu chân đau nhức như ai bẽ giò, tức ngực, v.v...).
Phước báo hữu lậu và phước vô lậu không thể nào đi chung với nhau được. Người chấp nhận phước hữu lậu thì không thể nào có phước vô lậu được, ngược lại, người chấp nhận phước vô lậu thì từ khước phước báo hữu lậu. Các nhà học gỉa chỉ nghiên cứu chứ không có kinh nghiệm tu chứng nên đã hiểu sai lệch về Phật giáo. Vì vậy các ngài hướng dẫn người tu làm những điều lành như: trai tăng, cúng dường, xây tháp, đúc chuông, và làm những việc từ thiện khác nữa v.v... Đó là tạo phước hữu lậu, cho nên cuộc sống họ không giải thoát. Họ (các thí chủ) chỉ được tiếng khen và vô tình trở thành người cho vay để lấy nặng lãi. "vay một, trả mười". Ngược lại, Phật giáo không làm từ thiện, mà chỉ sống đúng đạo đức nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Cho nên khi thấy ai khổ là thấy nhân quả của họ, chứ không phải ta làm khổ họ, mà chính họ tự làm khổ họ. Chúng ta có duyên gặp họ trong cảnh khổ, đó là nhân duyên nhân quả của ta đối với họ nên mới có sự gặp gỡ nầy thì chúng ta giúp đỡ và an ủi họ tùy theo nhân quả của họ.
Chúng ta không làm từ thiện như các nhà Đại Thừa vì chúng ta không làm sao cho họ hết khổ được, tại họ tạo ra nhân ác thì họ phải gánh chịu lấy quả khổ. Chúng ta cũng không làm từ thiện (theo lời dạy của một số tu sĩ)... làm thiện để mong cầu được lên Thiên Đàng, Cực Lạc, để được làm quan, giàu sang, sung sướng, v.v...). Chúng ta chỉ biết làm theo đạo đức làm người mà Đức Phật đã dạy: "Không làm khổ mình, khổ người".
Người không hiểu Phật pháp, tuyên dương "phước huệ song tu" là một sự sai lầm lớn. Có phước hữu lậu làm sao tu huệ được? Huệ là giới luật, là đức hạnh của con người và của các bậc Thánh Tăng. Đối với các vị Thánh Tăng thì chỉ có ba y và một bình bát, đi xin ăn mỗi ngày thì làm sao có phước hữu lậu cho được? Trong kinh Nguyên Thủy, Đức Phật đã xác định rõ ràng: "Trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, trí tuệ làm thanh tịnh giới luật, giới luật làm thanh tịnh trí tuệ".
Người có phước hữu lậu thì không bao giờ có trí tuệ; người có phước hữu lậu thì không bao giờ giữ gìn nghiêm chỉnh giới luật; người có phước hữu lậu thì không bao giờ được gọi là Trưởng Lão, nghĩa là không chứng quả giải thoát, vì chẳng bao giờ ly dục ly ác pháp. Chẳng ly dục y ác pháp thì chẳng bao giờ ngăn ác diệt ác pháp, do đó tu hành chỉ uổng phí một đời mà thôi.
Tag :
ĐỨC TÍNH PHẬT,